Truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu
Chương I
Ngọn bấc cháy đã gần
lụi chợt bùng lên nổ lép bép trong chiếc ống bơ sữa bò đựng dầu cặn. Ngoài rừng
sâu tĩnh mịch vọng lại tiếng suối chảy và tiếng kêu khắc khoải, tha thiết của
đôi chim trống mái. Đã khuya rồi mà hơn mười anh em lái xe vẫn còn kẻ nằm người
ngồi ngổn ngang trong chiếc lán nứa xiêu vẹo của tổ xăng dầu, chưa ai chịu đi
ngủ. Sau tấm bìa che bớt ánh sáng, ngọn đèn dầu cặn toả một cụm khói lớn, soi tỏ
hơn chục khuôn mặt dầu dãi và chiếu hắt ra ngoài đoạn đường mấp mô những hố bom
và vết bánh xe tải sâu ngập gối. Đêm nay mưa dầm, trung đội lái xe được dịp trở
về gần đông đủ. Cái lán nứa rất ồn ào, thỉnh thoảng một dịp cười vang lên chuyển
cả rừng. Không biết ở trên đời còn có cảnh gì vui và náo nhiệt hơn những đêm
như đêm nay, những chiến sĩ lái xe sau nhiều chuyến rong ruổi trên các ngả đường
nay trở về gặp mặt nhau. Sau hàng chục đêm thức chong bên tay lái, tưởng như họ
cứ nằm xuống là con mắt sẽ díp lại, vậy mà chẳng ai buồn ngủ cả.
- Xong chưa nào, đến
lượt tớ kể nhé?
Người này chưa nói
hết, người khác đã dặn trước như thế bằng giọng hết sức háo hức. Hình như trong
đầu từng người đang xôn xao vô vàn hình ảnh trên dọc đường, và chính lúc này,
những hình ảnh ấy đang chen lấn nhau đòi sống lại.
- Xong chưa nào, đến
lượt tôi kể nhé!
Một anh nằm trong
góc tối nói.
o O o
- Đã hơn ba năm
chưa được gặp cậu Lãm đấy!
Nhưng dầu sao đó
cũng chỉ là một việc riêng. Tôi đang bực và lo xe không lấy được hàng hay gặp
trở ngại gì, thì đồng chí lái phụ đánh xe lên, từ dưới chân dốc, đã bóp còi inh
ỏi như xe chữa cháy. Mặc tôi gắt, đồng chí lẳng lặng trao phiếu hàng cho tôi,
vui vẻ đặt vào trong cốp gói xôi lạc và một bi đông nước đường. "Chúc anh
đi may mắn nhé!" anh chàng vui tính nháy mắt ranh mãnh, rồi phát mạnh vào
vai tôi một cái đau điếng. Xong, anh chàng co chân nhảy xuống đường. Chuyến
này, theo phân công của trung đội, chỉ mình tôi đi. Tôi vẫn thường nhận một
mình một đầu xe. Đồng chí lái phụ làm việc ở nhà. Từ biệt tôi xong, đồng chí phụ
lái vừa đi qua mấy bước đã quay lại nắm tay nện vào cánh cửa xe sầm sầm:
- Anh Lãm này, theo
phiếu giao hàng, tôi kiểm lại thấy thiếu một chiếc lốp. Tôi đã bắt anh kho ký
nhận vào trong phía rồi đấy nhé!
- Được. - Tôi trả lời
và rất bằng lòng về công việc ấy.
- Còn một cái nữa,
cái này có nhưng mà không ghi trong phiếu...
- Còn gì nữa?
- Phía sau, có một
người ngồi nhờ lên cầu Đá Xanh đấy.
Tôi ngạc nhiên hết
sức, hỏi vặn:
- Sao cậu tự động
vô nguyên tắc thế hử?
- Nguyên do thế
này, anh ạ... Thế này...
Mặc dù những lý do
cho đi nhờ xe đồng chí lái phụ trình bày đều hợp lý, tôi vẫn giận đồng chí ấy.
Tôi đoán ngay con người đang ngồi sau kia nhất định là một cô gái. Và, trước mặt
tôi liền hiện ra cảnh tượng hết sức quen mắt: một bên là cái vẻ nũng nịu của một
cô nàng ôm chiếc nón trắng đứng sát cửa xe, một bên là những câu hỏi ỡm ờ của
"anh tài phụ" của tôi đang ngồi vắt vẻo trong buồng lái, một nụ cười
và một đốm thuốc lá ló ra ngoài. Thế là đủ tai hại cho tôi rồi! Tàn cho được
câu chuyện ấy thì xe lên sớm làm sao được? Đồng chí lái xe phụ đã quay về phía
sau từ lúc nào. Tôi vẫn còn ngồi phân vân mấy giây. Xe chạy qua bao nhiêu chặng
nguy hiểm mà trong xe lại có người đi nhờ? Nhưng chẳng lẽ bây giờ bảo người ta
xuống đi bộ? Thôi được! Tôi quyết định đi. Trước lúc mở máy. Tôi quay lại nhìn
qua tấm lưới sắt gắn sau lưng, chỉ thấy tối mò mò như hũ nút và mùi cao su mới
xông sang. Chẳng hiểu người khách đi nhờ ngồi ở góc nào.
- Ai ngồi trong đó?
- Tôi lên tiếng, giọng hỏi chẳng lấy gì làm ôn tồn lắm.
Không có tiếng đáp.
Chỉ thấy động lịch kịch giữa các chồng lốp ôtô ở phía sau. Rồi lại nghe tiếng
kêu lục cục khẽ như gà con cựa trong ổ. Tôi đoán câu chuyện trao đổi giữa tôi
và đồng chí lái phụ, "người khách" đã nghe rõ hết, và bây giờ thấy
tôi lên tiếng hỏi, người ấy sợ. Chắc người ấy đang phấp phỏng sợ tôi không cho
đi nhờ. Nhưng người đó là ai?
- Có ai ngồi sau
đó? - Tôi nhắc lại câu hỏi, lần này giọng đỡ gay gắt hơn.
- Tôi đây.. Tôi nhờ
đồng chí lên cầu Đá Xanh một tẹo.
Quả tôi đoán chẳng
sai. Rõ ràng tiếng trả lời của một người đàn bà, một cô gái, tiếng nói trong lắm
và rất bình tĩnh, cứng cỏi nữa là khác. Mặc, tôi vẫn hỏi gặng:
- Đàn ông, hay đàn
bà?
- Đàn ông!
- Thôi đi cô, đáng
lý tôi đã mời cô xuống, đây là xe chở hàng quân sự! Cô lên cầu Đá Xanh có việc
gì?
- Em là công nhân
giao thông. Anh gì ban nãy đã xem chứng minh thư rồi. Em về trên đơn vị có chút
việc.
Tôi hỏi bừa một câu
cho vui:
- Việc gì? Hay là
cô đi thăm chồng hay người yêu.
- Em đi thăm người
yêu đấy.
Tôi vội nổ máy và
trong bụng cũng phát hoảng lên vì cái cách con gái ăn nói đối đáp bạo dạn nhường
ấy. Nhưng nghe giọng nói, chẳng phải giọng một câu nói đùa. Biết đâu đấy, biết
đâu cô ta nói thật?
o O o
- Các cậu ơi, hãy
chịu khó đợi một chút! - Đồng chí lái xe đang kể chuyện nằm khuất trong bóng tối
lên tiếng kêu gọi. Mọi người đang nóng lòng muốn biết lý lịch cô gái đi nhờ xe.
Họ cứ làm ồn ào thúc giục đòi kể tiếp. Ngoài rừng vọng tiếng suối chảy tràn
trên đá và tiếng đôi chim kêu rụt rè ở hai góc rừng. Người kể chuyện khom lưng
qua góc ngoài tấm sạp nứa, đôi mắt nheo tít lại vì khói, thổi tắt ngọn lửa xanh
cháy trong lòng chiếc ống sữa bò. Căn lán phút chốc chìm trong bóng tối đầy tiếng
động kỳ lạ của đêm rừng. Câu chuyện lại được kể tiếp.
- Các đồng chí đừng
sốt ruột vì cô gái. Hãy để cô ta ngồi đấy giữa hàng chồng lốp ôtô...
Bây giờ, tôi kể xen vào một câu chuyện nhỏ, chuyện riêng của tôi. Tôi có một người chị ruột làm cán bộ ở một hạt giao thông quãng cầu Đá Xanh. Cách đây bốn, năm năm, trong chúng ta có đồng chí nào hay chạy con đường miền Tây, chắc còn nhớ cảnh tấp nập, đông vui của công trường xây dựng cầu Đá Xanh. Từ ngày đầu mới mở công trường, chị Tính, chị tôi, đã có mặt. Chị tôi ở tổ đá. Những người con gái làm đá đông lắm, có hàng trăm cô. Trong tổ đá của chị tôi có một cô tên là Nguyệt. Phải, Nguyệt là trăng. Cái tên khá đẹp! Đấy là một cô học sinh mới rời ghế nhà trường đi kiến thiết miền Tây. Chị tôi coi Nguyệt như một cô em gái, rất yêu mến Nguyệt, bởi lẽ cô ta rất ngoan ngoãn và tích cực. Bức thư nào gửi về cho tôi, chị Tính cũng nhắc đến tên người con gái ấy, kể lể đủ các đức tính tốt đẹp. Rồi trong một bức thư, chị tôi bảo: "Chị đã tính toán, đã nhằm cô Nguyệt trên này cho cậu. Trên đời khó tìm được một người con gái như thế!" Bức thư sau, chị tôi giục tôi lên "xem mặt", và nói: "Chị cũng đã nói thẳng ý định của chị với cô ấy. Nó chỉ đỏ bừng mặt lên không nói gì. Nhưng khi nào chị nói chuyện về cậu, về cái chuyện cậu trốn nhà đi tuyển bộ đội, cô ta ngồi nghe rất chăm chú. Cậu tranh thủ lên ngay nhé. Nguyệt nó cũng đang muốn gặp cậu. Chỉ cần hai người gặp nhau một lần là xong thôi!" Hồi đó, sau khi đi bộ đội, tôi làm chiến sĩ lái xe phụ thường chạy các tuyến đường ngoài Bắc. Tôi cũng đi vài chuyến miền Tây, có ghé vào công trường thăm chị Tính và cô Nguyệt, nhưng không gặp cả hai người. Trong những bức thư gửi cho chị tôi, tôi thường viết thêm đôi câu hỏi thăm Nguyệt và ngụ ý hứa hẹn gặp Nguyệt. Chắc chắn Nguyệt sẽ được xem tất cả những lá thư của tôi gửi cho chị Tính nên đã hiểu biết về tôi ít nhiêu. Giữa chốn rừng núi heo hút, một bức thư đến đều xem như của chung của mọi người. Bẵng đi mấy năm, chị tôi về Hà Nội học. Rồi xảy ra cuộc kháng chiến chống Mỹ; tôi xuất ngũ rồi tái ngũ. Bao nhiêu đường sá miền Tây và miền Trung, địch bắn phá dữ dội! Tôi chưa kịp lấy vợ nhưng câu chuyện cô Nguyệt và những bức thư của chị Tính tôi đã quên từ lâu. Chị Tính đi học gần hai năm lại quay về tuyến đường miền Tây. Từ nơi rừng núi quen thuộc, chị lại biên thư cho tôi, lần này kể chuyện địch bắn phá cầu Đá Xanh, chuyện các đơn vị giao thông quyết bảo vệ đường cho xe chạy. Những chuyện ấy với tôi chẳng có gì lạ. Nhưng lạ lùng hết sức, chị tôi nói quả quyết Nguyệt vẫn nhớ và đan chờ tôi. Qua mấy năm, có bao nhiêu người hỏi, nhưng cô ta đều trả lời đã trót hẹn với một người rồi. Chị tôi cho biết Nguyệt đang làm ở ngầm, một nơi rất ác liệt, vẫn ở gần chị. Cô ta giờ đã lớn, càng ngoan ngoãn, dũng cảm và lại xinh đẹp hơn trước nữa kia.
Chương II
Thú thật, lần này cầm lá thư
của chị Tính, tôi rất sung sướng và cảm động. Và cũng thật kỳ lạ! Qua bấy nhiêu
năm sống giữa bom đạn và tàn phá, mà một người con gái vẫn giữ bên lòng hình ảnh
một người con trai chưa hề gặp và chưa hứa hẹn một điều gì ư? Trong lòng cô ta,
cái sợi chỉ xanh nhỏ bé và óng ánh, qua thời gian và bom đạn, vẫn không phai nhạt,
không hề đứt ư? Hạnh phúc người con gái ấy đem đến cho tôi quá nhiều. Cho nên
tôi cảm thấy mình như một kẻ chịu ơn. Tôi phải gặp Nguyệt! Tôi quyết định biên
thư cho chị tôi, hẹn ngày gặp Nguyệt! Đấy là cái ngày mà tôi đã được đại đội
cho phép nghỉ. Sau chuyến xe chở lốp lên kho tiền tiêu, tôi sẽ quay về cánh đồng
săng lẻ giấu xe, rồi ghé vào chỗ chị Tính làm việc. ở đó, chị Tính sẽ dẫn tôi
xuống đội của Nguyệt. Tôi sẽ ở lại chơi một hôm, với tư cách là... khách qua đường
của đội nữ công nhân giao thông bến ngầm. Chiếc Gát lăn bánh rất êm trên đường.
Đêm rừng thật vắng vẻ và yên tĩnh. Tôi đặt nhẹ mấy ngón tay trên vòng lái, mắt
nhìn phóng về phía trước, và hình dung trước lúc tôi đến giữa đám các cô gái
nghịch như quỷ sứ. Gặp tôi, Nguyệt sẽ nói rất ít, còn các cô bạn thì sẽ làm loạn
lên. Nhưng chẳng hề gì, họ đều là những người bạn của anh em lái xe, đều là những
người con dũng cảm, chân thực và mến khách.
Tôi đi được mươi cây số thì gặp
một đoàn xe xích kéo pháo kềnh càng xuôi xuống, đành phải đỗ xe bên đường để
tránh. Tôi tranh thủ chui xuống gầm xe, soi đèn pin xem lại chiếc bóng đèn. Tôi
đang loay hoay vặn chiếc bóng thì nghe tiếng hỏi bên cạnh:
- Anh đi bóng quả táo hay quả
dưa đấy?
- Ai kia?
- Em đây mà!
À, cô gái đi nhờ xe. Trong
ánh đèn gầm hắn xuống mặt đường hiện ra ngay trước mũi xe một đôi gót chân bóng
hồng, sạch sẽ, đôi dép cao su cũng sạch sẽ, gấu quần lụa đen chầm chầm mắt cá.
- Ra vẻ cô này không phải người
lao động rồi - Tôi nghĩ - Hay là người ta đi thăm chồng hay đi thăm người yêu
thực?
Tôi chui từ gầm xe, đưa hai
tay dụi mắt:
- Chào cô, lần sau nếu xe dừng,
cô đừng nhảy xuống như thế này nhé!
- Nhưng mà ngồi trong ấy mùi
cao su khét quá, anh cho em đứng ngoài này thở một tý.
Qua làn ánh đen tù mù của
đoàn xe xích lao đi ầm ầm bên cạnh, tôi kịp nhận thấy vẻ xinh đẹp của cô gái, một
vẻ đẹp giản dị và mát mẻ như sương núi toả ra từ nét mặt, lời nói và tấm thân mảnh
dẻ, khác hẳn với nhiều cô gái công trường thường cô nào cũng thấp và đẫy đà. Cô
ta mặc áo xanh chít hông vừa khít, mái tóc dày tết thành hai dải. Chiếc làn và
chiếc nón mới trắng loá khoác ở cánh tay một cách nhẹ nhàng.
Tôi hỏi:
- Cô làm ở ngầm Đá Xanh hay
chỉ về đấy thăm ai?
Trên khuôn mặt sáng sủa
thoáng một nét e thẹn:
- Em làm ở ngầm...
- À, quên, tôi chưa kịp hỏi
tên cô đấy nhé.
- Em là... Nguyệt!
-...À thế...!
Tôi vờ như không, vội đưa mắt
ngắm cô gái một lần nữa thật kỹ lưỡng. Rồi, tay mở rộng cánh cửa buồng lái, tôi
vồn vã mời:
- Sau ấy mùi cao su khét lắm
đấy. Mời cô lên... Bên cạnh còn chỗ ngồi...
Đoàn xe xích kéo pháo 57 mới
khoẻ làm sao. Đường sá, núi non cứ rung chuyển ầm ầm. Trái tim tôi cũng muốn nảy
lên trong lồng ngực. Cô gái cố ý ngồi sát mé cửa, chiếc làn cói ôm gọn trong
lòng, giữa hai chúng tôi để một quãng cách rộng. Thú thật, trong đời lái xe của
tôi, chưa bao giờ tôi mời một cô gái lên ngồi trong buồng lái. Đây là một trường
hợp đặc biệt. Tôi với tay bật ngọn đèn nhỏ trong buồng lái. Cô gái ngắm
"cái nhà" cỏn con của tôi bằng cặp mắt tò mò và hơi rụt rè. Tôi bắt đầu
hỏi dò khéo léo:
- Ở đội ngầm của cô, có nhiều
cô tên là Nguyệt lắm thì phải?
- Sao anh biết?... Đội em có
ba Nguyệt. Nhưng một người đã hy sinh, chỉ còn em và một chị nữa là hai thôi.
- Cô Nguyệt hy sinh bao giờ?
- Tôi vội hỏi, rõ ràng nghe tiếng nói của mình mà như của người khác.
- Cách đây đã ba, bốn tháng,
trong trận địch ném bom đánh sập hẳn cầu Đá Xanh. Chị ấy chiến đấu dũng cảm lắm,
mà ngày thường lại hiền lành, ai cũng tiếc.
- Cô ấy có chồng chưa?
- Chưa. Hình như mới có người
yêu.
Tôi nắm vòng lái thật chặt. Mặt
đất dưới bánh xe, như đang nghiêng ngả, đảo lộn. Tôi cho xe đi chầm chậm và lại
hỏi:
- Còn cô Nguyệt thứ hai?
- Chị ấy đã bốn con rồi!
Chúng em thường gọi đùa là chị Nguyệt "lão". Sao anh hỏi tỉ mỉ vậy?
Tôi thở phào và nói đùa một
câu nhạt thếch. Lòng tôi rối như tơ vò. Chẳng lẽ lại đi hỏi thăm cô ta có biết
chị Tính hay không? Chỉ cần hỏi thế, mọi sự sẽ vỡ ngay, nhưng tôi vẫn không muốn
hoặc không dám hỏi. Tôi không muốn đi sâu vào câu chuyện riêng giữa chuyến công
tác. Thế nhưng rồi tôi vẫn cứ phải phân vân: trong hai người con gái, một trẻ
và xinh đẹp ngồi bên cạnh, và một người đã chết anh dũng, ai là người đã từng
mang canh cánh trong trái tim tuổi trẻ mối tình đầu đối với tôi suốt mấy năm,
mà tôi lại tỏ ra hờ hững? Một trong hai người, ai là người tôi sắp tìm đến, ai?
Người tôi sắp tìm đến là ai? Câu hỏi ấy cứ xoay trong óc tôi, như một cái dùi
nung đỏ bỏng rát. Nếu Nguyệt đã hy sinh thực thì tôi sẽ mang mối hận mãi mãi.
Xe đang lao qua quãng dốc. Từng mảng rừng, lèn đá, những bãi gianh ngổn ngang hố
bom từ trên cao rơi áp xuống tấm kính buồng lái. Tôi qua đi bỗng như có linh
tính, vội đạp phanh cho xe chậm lại. Qua tấm kính trước mặt, hiện ra một ngọn
đèn pháo sáng xanh lét run rẩy soi loè nhoè, ở trên đầu.
- Không nghe tiếng máy bay
sao lại có pháo sáng hử!
Tôi nghe ngóng và thốt lên. Từ
đầu, cô gái ngồi chống khuỷu tay lên thành cửa nhìn ra ngoài. Cô quay vào, nói:
- Không phải đâu. Trăng đó
anh ạ.
Trăng thật. Hôm nay đầu
tháng. Từ đầu hôm, tôi vẫn đi giữa đêm trăng mà không biết. Cô gái vẫn bình thản
ngồi nhìn ra ngoài trời. Tôi quẹt diêm châm một điếu thuốc rồi tăng số cho xe
phóng nhanh hơn, trong lòng vẫn không hết gượng. Già đời trong nghế lái xe, bom
đạn nguy hiểm gặp đã nhiều, tôi vốn không phải anh nhút nhát, vậy mà không hiểu
sao đêm nay nhìn trăn ra pháo sáng! Qua tầm kính ướt hơi sương, mảnh trăng nằm
giữa những tầng mây hiện ra tái ngắt, ánh sáng loè nhoè, mỗi lúc xe nảy lên hay
vòng qua chỗ lượn, mảnh trăng lại chập chờn lay động, có lúc thấy rơi tõm xuống
khoảng tối mịt mù của cánh rừng già như một trò chơi ú tim. Khoảng gần khuya,
trên các chỏm rừng, gió tây nam cuốn mây xám về một góc rồi thổi giạt đi. Gió
thổi vào cành lá nguỵ trang trên nóc xe ràn rạt. Trên đầu chúng tôi, khoảng trời
đêm trên cao trở nên trong vắt, cao lồng lộng, trong khoảng sâu thẳm nổi lên một
tiếng chim mơ hồ. Nhưng ở lưng các cánh rừng, sương trắng không biết từ đâu cứ
đùn ra mãi. Dòng sông bên trái đường phút chốc biến mất, chỉ còn là sương trắng
phủ kín, thảng hoặc mới thấy một chỏm rừng, một ngọn núi đá bên kia sông nhô
lên, đen đủi và cô độc giữa một mầu trắng xoá.
Xe tôi chạy trên lớp sương bềnh
bồng. Mảnh trăng khuyết đứng yên ở cuối trời, sáng trong như một mảnh bạc.
Khung cửa xe phía cô gái ngồi lồng đầy bóng trăng. Không hiểu sao, lúc ấy, như
có một niềm tin vô cớ mà chắc chắn từ trong không gian ùa tới tràn ngập cả lòng
tôi. Tôi tin chắc chắn người con gái đang ngồi cạnh mình là Nguyệt, chính người
mà chị tôi thường nhắc đến. Chốc chốc, tôi lại đưa mắt liếc về phía Nguyệt, thấy
từng sợi tóc của Nguyệt đều sáng lên. Mái tóc thơm ngát, dày và trẻ trung làm
sao! Bất ngờ, Nguyệt quay về phía tôi và hỏi một câu gì đó. Tôi không kịp nghe
rõ vì đôi mắt tôi đã choáng ngợp như vừa trông vào ảo ảnh. Trăng sáng soi thẳng
vào khuôn mặt Nguyệt làm cho khuôn mặt tươi mát ngời lên và đẹp lạ thường! Tôi
vội nhìn thẳng vào đoạn đường đầy ổ gà, không dám nhìn Nguyệt lâu. Từng khúc đường
trước mặt cũng thếp từng mảnh ánh trăng...
- Anh nhỉ? Có phải không nhỉ...
- Cô hỏi gì?
- Em hỏi có phải các anh lái
xe đi nhiều nơi, chắc hẳn quen biết nhiều người lắm?
- Đời lái xe chúng tôi như vạc
ấy, cô ạ! Nay rừng này, mai qua suối kia, nhưng tháng này sang tháng khác vẫn
làm bạn với đường, với trăng thôi.
Chẳng biết lúc ấy ai mới móc
miệng cho mà tôi bỗng trở nên ăn nói văn vẻ đến thế! Quá nửa đêm, chúng tôi đến
gần cầu Đá Xanh thì trăng lặn. Chúng tôi không nói chuyện nữa. Mảnh trăng đã
khuất hẳn xuống khu rừng ở sau lưng. Tôi bật chiếc bóng đèn quả dưa cho sáng
hơn và bảo Nguyệt:
- Cô chú ý nghe hộ, từ đây đường
thường có máy bay.
guyệt vẫn thản nhiên ngồi
nhìn ra ngoài:
- Anh cứ yên tâm, đoạn này,
em quen lắm!
Nguyệt hướng dẫn cho tôi đánh
xe rẽ sang con đường xế về phía ngầm. Con đường thấp hẳn xuống, quanh co, sục
lên một thứ bùn quánh nhão nhoét quanh những hố bom cũ và mới. Tôi dán mắt qua
mặt kính, thận trọng lái hai bánh trước tránh hai vệt bánh xe như hai cái rãnh
thoát nước ở giữa đường. Có đoạn, bánh trước sục xuống rãnh sâu quá, Nguyệt phải
xuống "xi-nhan" cho tôi kéo lên. Có đoạn không nhích lên được. Tôi phải
cài số phụ, rồi tăng ga mãi. Không khí trong buồng lái nóng sực. Lốp xe quay
tròn, xiết trên đá khét lẹt.
Nguyệt nhìn đoạn đường khó
đi, nói như thanh minh:
- Chúng nó ném bom luôn,
chúng em đã rải bao nhiêu đá mà đường sá còn ra thế!
Tôi vò chiếc mũ vải trong bàn
tay, lau mồ hôi rồi tính đến lúc sắp phải từ biệt Nguyệt:
- Cô sắp xuống rồi chứ? Bao
giờ xuống, cô bảo tôi để tôi dừng xe.
Đáng lẽ Nguyệt đã xuống ngang
quãng trạm gác bến ngầm ở ngã ba,
nhưng cô muốn đưa tôi đi tiếp
sang bên kia sông. Cô cười, nói đùa:
- Anh đã cho em đi nhờ xe,
lúc khó khăn lại bỏ anh ư!
Tôi nói rất nghiêm trang:
- Thế nào chúng ta cũng còn gặp
nhau! Mà dù cô xuống từ dưới kia, tôi cũng không bao giờ nghĩ cô là một người
khi khó khăn thì bỏ người khác.
- Sao vậy, anh?
- Trông cô, tôi biết...
Chương III
Một làn nước hiện ra trước mặt.
Đoạn ngầm Đá Xanh ngắn thôi, nhưng mấy hôm trước mưa lũ, nước dâng cao trên mặt
đá đến hơn một mét. Vừa đánh xe xuống, đã nghe nước tràn vào ống sả hơi ùng ục.
Chiếc xe lắc điên đảo, lúc ngoi lên lúc hụp xuống như một con trâu nước dữ tợn.
ánh đèn chiếu sáng mặt nước loang loáng. Ra đến quá nửa ngầm thì nước sâu quá,
xe không đi được nữa. Nguyệt đứng bám bên cánh cửa hướng dẫn cho tôi đi đúng giữa
hai hàng cọc tiêu. Cô vội nhảy ùm xuống nước, bảo tôi tắt đèn.
- Có máy bay à?
- Để em nghe kỹ xem đã. Anh cứ
tắt đèn đi. Loáng đèn dưới nước trông xa lắm đấy!
Đèn tắt. Chưa bao giờ trời tối
đến thế, chỉ nghe tiếng nước vỗ ì oạp vào tai xe. Tôi cố tiến, lùi nhưng xe chỉ
lắc lư, vòng lái nặng như cối đá. Giữa đêm lạnh mà quần áo tôi ướt đẫm. Nguyệt
để cả quần áo thế, nhanh nhẹn lội phăng sang bên kia bờ giúp tôi cột dây tời
vào một gốc cây. Tôi xoay sở như đánh vật một lúc, cuối cùng cũng đưa chiếc xe
leo lên được tới quãng đường rải đá khấp khểnh. Chúng tôi thở không ra hơi,
đang mồ mẫm cuốn dây tời thì máy bay đến. Từ sau rặng núi đá dựng đứng bên
trái, bọn chúng ập đến như tiếng sét. Tiếng máy bay ầm ầm. Tôi vứt vòng dây sắt
nặng trĩu trên tay, chạy nhào về phía xe. Vừa chạy được hai bước, tôi đã bị
Nguyệt túm trở lại, nhanh và khoẻ hết sức. Nguyệt đẩy tôi ngã vào giữa một vật
gì rất cứng và sâu. Nghe hơi thở và tiếng nói của Nguyệt rất bình tĩnh:
"Chúng đánh toả độ đấy!".
Một ánh chớp giật mát lạnh, đất
rùng lên một hồi. Lặng đi mấy giây, tưởng có thể nghe được tiếng vỗ cánh của một
con dế rất nhỏ, bỗng đâu đất, đá và cành cây bé cành cây lớn rơi ầm ầm, rào
rào. Tôi vừa kịp nhận ra mình đang đứng giữa một cái khe chỉ vừa một người hai
bên là hai gốc cây to. Nguyệt đang nấp ở mé ngoài.
Hai thằng địch khác lại sắp
lao xuống, lại sắp một đợt khác! Tôi nắm tay kéo Nguyệt vào khe, nhưng Nguyệt
nhất định không chịu.
Nguyệt thét lên:
- Anh bị thương thì xe cũng mất,
anh cứ nấp đó!
Không ngần ngại, tôi bế xốc
Nguyệt đặt giữa cái khe giữa hai gốc cây rồi chạy về phía xe đỗ. Địch bắn hai
mươi ly đỏ lừ, nghe rát cả mặt. Xe tôi vẫn đứng đó, lửa đã bén vào lốp. Tôi dập
lửa, trèo lên xe, nổ máy. Nguyệt cũng vừa chạy đến bên cánh cửa.
- Cho xe chạy đi anh, nó còn
tiếp tục đánh ngầm đấy!
- Chạy chứ!
Một loạt bom rất gần, hơi bom
xô Nguyệt ngã dúi. Tôi kéo Nguyệt vào trong đóng cửa buồng lái rồi chẳng đèn
đóm gì hết, cứ theo lời Nguyệt chỉ đường, tôi cho xe phóng. Địch quây tròn trên
đầu như xay lúa, rất thấp, thả pháo sáng và bắn hai mươi ly. Mặc, tôi cứ chạy,
và Nguyệt cứ nói rành rọt như người đếm bên cạnh:
- Anh ngoặt sang trái... Trước
mặt có hố bom đấy... Chuẩn bị, sắp lên một cái dốc có "cua"...
Qua một quãng khó đi và tối
quá, Nguyệt nhảy xuống đi dò trước. Tôi cứ nhằm cái bóng trắng nhờ nhờ của Nguyệt
trước mặt mà lái theo. Lên quá độ hai kilômét, tôi dừng xe nép vào bên một
"ta luy" cao có cây rậm. Tôi bật đèn buồng lái. Cái tôi trông thấy đầu
tiên là có vết máu bên vai Nguyệt, vết máu chảy xuống đỏ cả cánh tay áo xanh.
Chết thật, cô ta bị thương rồi! Không biết Nguyệt bị thương loạt bom đầu tiên,
lúc tôi nấp dưới khe, hay khi cô vùng chạy theo tôi trở về xe? Thú thực, lúc ấy
trong lòng tôi dấy lên một tình yêu Nguyệt gần như mê muội lẫn cảm phục.
Nguyệt nhìn vết thương, cười.
Khuôn mặt hơi tái nhưng vẫn tươi tỉnh và xinh đẹp. Từ đầu đến chân, cô ta ướt
như một con công vừa tắm. Tôi rút chiếc mùi xoa đầy vết dầu mỡ trong túi, buộc
ngoài lần áo xanh để cầm máu. Tôi đề nghị đưa Nguyệt sang bên kia ngầm về đơn vị,
nhưng Nguyệt gạt đi:
- Đây là giang sơn của em rồi.
Anh đi đi, không trời sáng mất! - Rồi Nguyệt lại cười: - Anh cứ yên tâm, vết
thương chỉ sướt da thôi. Từ giờ đến sáng, em có thể đi lên đến tận trời được!.
Gà rừng đã eo óc gáy thưa thớt.
Tôi không thể bỏ xe được. Tôi đành từ biệt Nguyệt, nắm bàn tay thấm ướt máu rất
lâu, và tôi nói một lời hứa đinh ninh: "Ngày mai, tôi quay về, nhất định
tôi vào... thăm Nguyệt!".
Tôi lên xe, phóng như bay về
phía tiền tiêu, với một tâm trạng vui sướng và rộn ràng rất lạ, và lại rất lo lắng
cho Nguyệt, lúc nào cũng thấy trước mắt bóng một người con gái mặc áo xanh, một
bên cánh tay buộc chiếc mùi xoa của tôi, với chiếc làn và chiếc nón trắng mới,
cô ta đang đi trở lại về phía ngầm. Có lúc, tôi lại thấy cô quay lạ, khuôn mặt
đẹp lộng lẫy đầy ánh trăng...
- Thế nào, kể tiếp đi! Ngày
hôm sau sống chết cậu cũng phải mò tới cái đội nữ công nhân ấy chứ?
Những người nghe chuyện vẫn tỉnh
như sáo. Có lẽ đã hai ba giờ sáng. Gà rừng gáy eo óc, thưa thớt. Nghe tiếng đôi
chim trống mái gọi nhau đã gần hơn.
o O o
Đêm ấy tôi chạy nhanh đến như
vậy, nhưng lên đến tiền tiêu giao hàng cho kho xong, thì trời đã gần sáng. Thế
là không kịp quay về rừng săng lẻ giấu xe nữa, đành đánh xe đi giấu ngay ở đấy.
Và lại hí húi đi kiếm lá nguỵ trang, tháo xăng, nấu cơm ăn.
Thật chán hết sức! Thế là bay
đi một ngày phép!
Đại đội trưởng lại bố trí cho
tôi đi một chuyến nữa lên tiền tiêu vào ngay đêm sau. Lần này, tôi kịp ghét
thăm chỗ hạt giao thông của chị tôi, cũng đóng không xa đội nữ công nhân phụ
trách ngầm. Lán đội nữ công nhân giữa khu rừng săng lẻ rất đẹp. Con gái bao giờ
họ cũng chu đáo và chăm chỉ chứ không tềnh toàng như chúng mình. Lán họ ở sạch
sẽ, ngăn nắp, có nhà ăn, nhà câu lạc bộ...
Thấy tôi đến, chẳng phải chị
chị Tính, mà các chị em khác đều niềm nở, toàn là những tay ăn nói khiếp cả.
Nhưng còn tôi lòng dạ nào mà đối đáp với họ! Việc đầu tiên là tôi quan sát thần
sắc của chị Tính; hai ngày qua tôi đã tin chắc chắn không thể nào sai được rằng
người con gái mình đang tìm gặp thì đã gặp, nhưng đến đây, tôi lại nghĩ Nguyệt
có thể là người con gái đã anh dũng hy sinh từ cách đây ba, bốn tháng. Chị Tính
dẫn tôi vào nhà, và trách:
- Hôm kia, sao cậu không về?
Nguyệt nó chỉ tranh thủ lên được có một hôm, đợi cậu suốt ngày không thấy, cô ấy
lại phải về dưới ty rồi!
Thế là trống ngực tôi không
đánh nữa. Tôi tò mò hỏi:
- Cô ấy về dưới ty làm gì?
- Cô ấy đang dở học lớp đảng
viên mới ở dưới đó.
Hai chị em chúng tôi đang dở
chuyện thì một chị to béo, trạc gần bốn mươi, hai tay cắp hai cái bì đựng măng
xồng xộc đi vào và hỏi:
- Đâu, cậu Lãm, em trai chị
Tính tới mà sao không đến trình diện với tôi hử? - Chị túm lấy tôi trong hai
bàn tay hộ pháp: - Mặt mũi sáng sủi đấy chứ, lái xe à?Tôi hỏi thế này nhé, anh
đã biết tội của anh chưa?
Chị Tính cứ ôm miệng cười.
Còn tôi thì chẳng hiểu gì cả. Lát sau, mới biết chị làm tổ trưởng nấu ăn của đội,
đấy chính là chị Nguyệt "lão", một người bạn thân thiết của chị tôi từ
lâu.
Chị Nguyệt "lão"
vui vẻ "mắng" tôi một hồi nữa, đầy những "cớ sao", "cớ
sao" mấy năm trời để cho "cái Nguyệt" nó đợi đỏ mắt, có muốn
"tìm hiểu" người ta hay không thì cũng phải bảo một câu chứ! Rồi chị
kể:
- Hôm nọ, "nó" trở
lên đây, đi nhờ xe vận tải của một anh bộ đội, xe bị bom dọc đường, may mà chỉ
bị thương rất nhẹ thôi.
Chị hỏi: "Anh vẫn chưa biết mặt nó, hử?" rồi kéo tuột tôi đến trước một hàng ảnh nhỏ xít dán chi chít trên tờ giấy bao xi măng giữa nhà câu lạc bộ. Chị Nguyệt "lão" chưa kịp trỏ, tôi đã nhận ra tấm ảnh của Nguyệt. Cách đây mấy năm, trông cô như một con chim non đang tập bay. Nguyệt đang đứng cheo leo giữa lưng núi, trên vai vác một chiếc máy khoan, đôi mắt đen láy ngây thơ nhìn ra xa. Nhìn bức ảnh ấy, tôi không khỏi nhớ những ngày rộn ràng xây dựng những chiếc cầu. Ngọn núi Nguyệt đang đứng chính là một ngọn trong dãy núi đá xanh cao sừng sững nằm bên trái bến ngầm. Ngày khởi công xây dựng chiếc cầu ở đây, đội đá của công trường có hàng trăm cô. Tháng này sang tháng khác, với một sợi dây da bảo hiểm buộc ngang lưng, họ dũng cảm trèo lên những tầng đá cao, chọn những vỉa đá xanh đẹp nhất về xây cầu. Chiếc cầu làm trong gần hai năm mới xong, xanh biếc và đẹp như một giấc mộng, nhưng vừa khánh thành được mấy tháng thì máy bay Mỹ đã đem bom tới phá sập.
Buổi chiều hôm đó, chị Tính
và chị Nguyệt "lão" tiễn tôi ra đến bờ sông. Chị Nguyệt
"lão" giơ nắm tay to lớn ra trước mặt tôi:
- Khối anh cán bộ khá hẳn hoi
muốn yêu nó. Nó chỉ chờ gặp anh đó thôi! Coi chừng cứ phóng xe chạy biến đi,
tôi không có dây tơ hồng nhưng đã có dây trói lợn trói anh lại"!
Tôi vội vàng nhét vào trong
chiếc túi cấp dưỡng nhọ nhem của chị một chiếc phong bì miên rất cẩn thận. Suốt
buổi trưa, tôi đã mượn giấy bút biên cho Nguyệt lá thư đầu tiên. Ra đến rừng
săng lẻ, tôi chưa về chỗ giấu xe vội, mà men bờ sông ra ngoài cầu. Con sông miền
Tây in đầy bóng núi xanh thẳm, hai bên bờ cỏ lau chen với hố bom. Chiếc cầu bị
cắt làm đôi như một nhát dìu phang rất ngọt. Ba nhịp phía bên này đổ sập xuống,
những phiền đá xanh lớn rơn ngổn ngang dưới lòng sông, chỉ còn hai hàng trụ đứng
trơ vơ giữa trời. Tôi đứng bên bờ sông giữa cảnh một chiếc cầu đổ và lại tự hỏi:
Qua bấy nhiêu năm tháng sống giữa cảnh bom đạn và tàn phá những cái quý giá đó
chính bàn tay mình xây dựng nên, vậy mà Nguyệt vẫn không quên tôi sao? Trong
tâm hồn người con gái nhỏ bé, tình yêu và niềm tin mãnh liệt vào vuộc sống, cái
sợi chỉ xanh óng ánh ấy, bao nhiêu bom đạn giội xuống cũng không hề đứt, không
thể nào tàn phá nổi ư?
o O o
Người kể chuyện tự nhiên ngừng
bặt như đang lắng nghe tiếng trả lời đâu từ trong lòng mình. Những người bạn
cũng không hỏi, không đòi kể tiếp và nói chuyện ồn ào như những lần trước.
Hẳn đã gần sáng. Ngoài rừng
sâu, đôi chim gọi nhau suốt đêm đã im tiếng, có lẽ chúng đã tìm thấy nhau. Chân
trời phía rừng Tây bỗng ửng sáng. Rồi trăng đội chỏm cây từ từ nhô lên. Từng
chiếc lá đùng đình trên nóc lán loé sáng như những mảnh bạc. ánh trăng khuya lặng
lẽ soi đầy trên mái và đoạn đường đầy vết xe trước cửa. Người kể chuyện ngẩng
lên ngắm mảnh trăng vừa lên rồi nằm xuống giữa những người bạn lái xe. Anh giục:
- Ngủ thôi các cậu! Mai còn
chạy...
=== Hết ===
![]() |
Vợ chồng nhà văn Nguyễn Minh Châu (1961) |
Nhà văn Nguyễn Minh Châu,
sinh ngày 20 tháng 10 năm 1930. Quê quán xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh
Nghệ An. Hội viên Hội nhà văn Việt Nam năm 1972. Ông mất ngày 23 tháng 1 năm
1989 tại Hà Nội.
Năm 1944-1945, ông học trường
Kỹ nghệ Huế. Tháng 1 năm 1950 ông học chuyên khoa trường Huỳnh Thúc Kháng, sau
đó gia nhập quân đội, theo học trường Sỹ quan Trần Quốc Tuấn. Từ năm 1952 đến
1956 ông công tác tại Ban tham mưu tiểu đoàn 722, 706 thuộc Sư đoàn 320. Từ năm
1956 đến năm 1958 ông trợ lý văn hóa Trung đoàn 64 thuộc Sư đoàn 320. Năm 1962
ông về công tác tại phòng Văn nghệ quân đội, sau chuyển sang Tạp chí Văn nghệ
quân đội.
Năm 1960, Nguyễn Minh Châu viết
truyện ngắn đầu tay "Sau một buổi tập". Trong sự nghiệp sáng tác kéo dài ba thập
kỷ (1960-1989), khép lại với truyện vừa "Phiên chợ Giát" viết năm 1989, ông để lại
13 tập văn xuôi và một tiểu luận phê bình. Các tác phẩm chính của ông là "Cửa
sông" (tiểu thuyết, 1966), "Những vùng trời khác nhau" (truyện ngắn, 1970), "Dấu
chân người lính" (tiểu thuyết, 1972), "Miền cháy" (tiểu thuyết, 1977), "Lửa từ những
ngôi nhà" (tiểu thuyết, 1977) "Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành" (truyện ngắn,
1983), "Bến quê" (truyện ngắn, 1985), "Mảnh đất tình yêu" (tiểu thuyết, 1987), "Cỏ
lau" (truyện vừa, 1989)...
Nhà văn Nguyễn Khải:
"Nguyễn Minh Châu là người kế tục xuất sắc những bậc thầy của nền văn xuôi
Việt Nam và cũng là người mở đường rực rỡ cho những cây bút trẻ tài năng sau
này".
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét