Hiển thị các bài đăng có nhãn H'Mông. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn H'Mông. Hiển thị tất cả bài đăng

15 tháng 9 2024

Rẻo cao

Truyện ngắn của Nguyên Ngọc 

Ông Cắm bỏ nhà đi hoạt động cách mạng, mải việc nước đến quên cả lấy vợ. Về già, ông về quê, “làm cách mạng” bằng việc chuyển thư từ, báo Đảng xuống các làng bản.

Thế là chuyến công văn hôm nay lại lên muộn rồi.

Đồng chí Cắm, bí thư xã Nà Lường sốt ruột lắm. Nước ở con suối đầu bản róc rách nhỏ từng giọt vào trong lòng, trong ruột Cắm.

- Mùa xuân lại làm chậm báo Đảng mất rồi. Ông trời đẹp lại giữ đồng chí giao thông huyện ở dọc đường rồi. Lần này không thương nó được nữa, phải phê bình nó một trận chứ. Nó yêu cái hoa mùa xuân hơn cái báo Đảng sao. Cái thằng!

Đồng chí giao thông huyện chính là cháu gọi Cắm bằng chú. Cắm biết nó từ khi nó mới lọt lòng mẹ, nó còn bằng cái nắm tay thế này, nó đỏ như một hòn máu. à, thế mà nó nhớn nhanh hơn một cái cây bên suối đấy. Không biết cái gì nuôi nó nhớn nhanh thế. Đi ra ngoài nương, đi về trong nhà, đã thấy nó nhớn bằng con lợn ba tháng rồi. Tra lúa, lúa có sữa, nó đã nhớn bằng con hoẵng con rồi. Lúa chín thì nó biết ngồi. Gặt lúa thì nó biết đứng. Lại đốt nương thì nó biết đi.

Từ đó, Cắm cứ tính tuổi nó bằng mùa mưa. Một mùa mưa, hai mùa mưa, ba mùa mưa. Thằng bé lúc đầu còn như một con bê, sau nó thành một con chó lài, sau dần dần thì nó đã trở thành một con cọp, một con cọp thật đấy. Rừng nào, núi nào nó cũng không chừa. Bụng nó sáng như thắp đèn trong ấy. Cái gì nó cũng biết, chỉ có cái sợ là nó chưa biết.

Cứ mỗi mùa mưa, Cắm lại quệt cho nó một cái quệt than đen sì lên cây cột nhà. Năm cái quệt, sáu cái quệt, bảy cái quệt. Cắm tính tuổi cho nó nhưng lại quên tính tuổi cho mình: khi cây cột của thằng bé được bảy cái quệt than, thì quanh mồm Cắm đã lún phún đầy râu là râu.

Nhưng năm đó xảy đến một việc lớn lắm, việc đó làm cho Cắm bỏ cái cột nhà còn trơ bảy cái quệt than đấy, không quệt thêm được cái nào nữa. Năm ấy, ông Cụ qua bản. Thoạt đầu thì Cắm rất lạ. Cái lạ đó đến bây giờ cũng còn lạ.

Ừ, cũng mùa xuân như thế này đây. Cũng con suối đầu làng ấy, cũng nước róc rách chảy như thế đó. Cũng những vách núi cheo leo vây kín cái thung lũng hình sừng trâu này. Có gì khác đâu. Nhưng sao lại xảy đến một việc lạ như thế? Trên cái làng Mèo chót vót đỉnh núi quanh năm mây phủ này, nếu khi nào có khách lạ đến thì đó cũng chỉ là một con hổ đói mồi, một con lợn rừng lạc bầy. Chưa bao giờ có khách lạ là người đến đây, lội qua cái suối này, leo lên hòn đá này, bước lên cái thang này, ngồi vào trong nhà này.

Thế mà lần ấy lại có người khách đến. Người gì? Lúc đó không ai biết rõ. Ông Lãi thì bảo: người Tày đấy! Ông Thá thì bảo: người Nhắng đấy! Ông già Rỉ chột mắt, cái gì cũng biết thì bảo: người Mèo ta thôi. Bà cụ Kiên thì bảo: không phải đâu, người Kinh đấy lố. Nhưng ông cụ già nhất làng gọi riêng Cắm ra đầu suối nói rằng: tất cả đều không ai nói đúng, đó là người cách mạng! Người cách mạng là giống người nào, xưa nay Cắm chưa nghe nói đến.

Cắm được nhìn ông Cụ có mỗi một lần, một lần dài suốt một đêm, thế mà bây giờ còn tiếc mãi, tiếc mãi. Biết thế khi đó ta nhìn nhiều nữa cho no mắt. Bởi vì ông Cụ có phải là ai lạ đâu. Ông Cụ chính là Bác bây giờ! Ông Cụ chỉ ghé qua cái làng Mèo có mỗi một đêm mưa. Rồi đi. Ông Cụ đi về phía trước mặt kia, chỗ vách núi vẫn dựng cao vòi vọi.

Sau đó ít lâu, Cắm cũng bỏ nhà, bỏ nương, bỏ cả thằng cháu bé, bỏ cả cây cột nhà mới quệt được bảy cái quệt than mà ra đi. Cắm đi năm năm, chưa một lần nào được gặp lại ông Cụ nữa. Nhưng Cắm biết rõ là mình đi theo ông Cụ đây. Mỗi con suối Cắm lội qua, mỗi ngọn núi Cắm leo lên, mỗi bước chân Cắm bước đi trên đường, Cắm đều nghĩ chắc chắn rằng: bước chân ông Cụ cũng đã giẫm lên chỗ này đây và thế thì nhất định là đi đúng con đường tốt rồi. Con đường đó Cắm đi năm năm thì tới ngày Độc lập.

Khi cách mạng đã lên rồi, Cắm trở về làng. ồ, cái thằng bé gọi Cắm bằng chú. Coi kìa! Nó đã trở thành một thằng con trai lớn tồng ngồng. Cái lưng nó đã rộng bè bè và hơi cong lại như lưng một con thú rừng sắp vồ mồi. Tóc nó đen và dài. Và cặp mắt nó thì đích thị là cặp mắt của một người Mèo thực sự, xếch lên một chút, sáng như hai đốm lửa trong rừng khuya và sâu đến nao lòng những cô gái nào vô tình nhìn vào đấy. Mới đầu, nó không nhận ra Cắm. Cái thằng bé!

- Mày không nhận ra tao nữa à? Tao nuôi mày từ khi mày còn đỏ như hòn máu đấy. Tay tao tắm cứt trâu trên đầu cho mày ở suối này đấy. Mày không biết sao? Tao quệt cho mày bảy cái quệt than đen đấy!

Thế là nó nhảy tới, đúng là một con thú rừng thật, nó nhảy tới vồ lấy chú nó, rú lên:

- A, chú Cắm, chú Cắm, chú đi cách mạng đã về rồi! Thế còn ông Cụ có về với chú không?

Cắm ngồi xuống sàn nhà, dựng khẩu súng vào giữa hai chân, gác mũi súng lên vai:

- Ừ, tao già rồi. Cách mạng chưa xong đâu, tao về rồi mày lại đi đấy. Ông Cụ còn đi cách mạng, đã xong đâu mà về. Còn gian khổ đấy. Còn thằng giặc đấy.

Cắm đã già đi nhiều thật. Anh leo thang, hai đầu gối mỏi dừ. Ngày trước đuổi con nai một ngày trong rừng, gối con nai nhão đi rồi, gối Cắm gõ còn kêu boong boong như gỗ lim. Thế mà bây giờ... Các đồng chí bảo: Cắm già, yếu rồi!

Cắm không nghe. Cách mạng chưa xong không chịu về đâu! Các đồng chí phê bình. Phê bình thì phê bình, Cắm cũng đi cách mạng cho đến cùng kia. Ông Cụ đấy, không già như ông nội Cắm sao, ông Cụ còn đi kia mà. Về sau các đồng chí giao nhiệm vụ cho Cắm: Cắm về xã, về làm cách mạng ở xã. ở xã cũng phải làm cách mạng chứ. ở đâu còn có người khổ, ở đấy đều phải làm cách mạng. Ừ, thế thì Cắm về...

Mười năm qua, Cắm về làm cách mạng ở cái xã Mèo cheo leo trên đỉnh núi này. Mùa mưa đến, mùa mưa đi, rồi mùa mưa lại đến, như một người bạn chí tình, không bao giờ lỗi hẹn. Tóc Cắm dần dần bạc đi từng sợi.

Nhưng cách mạng thì Cắm không bỏ được. Cắm làm chủ tịch xã. ừ, cũng vào dạo một mùa mưa, tiếng súng nổ dưới Phủ Thông Đèo Giàng, Cắm dẫn một đoàn dân công Mèo đi vác súng, đạn, gạo ăn, nước uống cho bộ đội. Đoàn dân công của Cắm đi gần một con trăng, đến khi về thì thiếu mất một người. Người đó là thằng cháu của Cắm. Nó chẳng mở miệng nói với Cắm một tiếng nào cả. Suốt mười ngày Cắm thấy nó lầm lầm lì lì, mặt lúc nào cũng như cái mặt của hòn đá thế. Cắm bảo bụng: nó nghĩ cái gì thế? Sao nó không hát nữa, sao nó không đùa nữa? Hàng ngày nó hát hay đến cháy trái tim con gái Mèo kia mà? Hay là nó mất tinh thần rồi? Hừ, tao nuôi mày lớn lên bằng này mà mày làm nhục tao à! Một buổi sáng, nó nói với Cắm:

- Chú à, cháu cũng đi cách mạng thôi.

- Đi dân công cũng là đi cách mạng chứ.

- Không, cháu đi cách mạng với bộ đội kia.

Thế là nó đi.

Mãi đến lúc đó Cắm mới sực nhớ ra rằng nó đi rồi thì mình còn có ai thân thích nữa đâu. Cắm lớn lên như một cái cây trơ trụi giữa bãi tranh, không có cha, không có mẹ. Thằng cháu của Cắm cũng thế, mới lọt lòng mẹ thì nó đã là một thằng bé mồ côi. Cắm nuôi nó, lo cho nó mà quên lấy vợ cho mình.

Rồi Cắm đi cách mạng. Rồi Cắm lại về với nó. Bây giờ nó đi ư? Cắm lại như cái cây đứng chơ vơ giữa đám tranh dày. Trên đường từ mặt trận về nhà, leo qua đèo Keo Cọ trắng xóa, bụng Cắm lao lung biết chừng nào, khi buồn vì nó đã đi, khi vui vì nó đã nên một người Mèo cách mạng, bụng Cắm lao lung như con suối khi gặp một ngả quẹo quá ngặt, nó dồn nước lại, lưỡng lự không biết chảy đi đâu, rồi nó tràn lên đầy ắp cả hai bờ... ít lâu sau Cắm làm thêm bí thư xã nữa. Lại đi tiếp tế cho bộ đội, lại đi họp trên huyện, lại lãnh đạo nhân dân tăng gia. Mùa mưa đến. Mùa mưa đi...

Thế rồi một hôm thằng bé trở về. Nó bảo:

- Chú ơi, thắng giặc rồi. Bây giờ tôi về làm cách mạng ở xã đây. Nó về làm giao thông cho huyện. Huyện chọn nó làm giao thông vì nó đã học được chữ ở bộ đội. Bụng nó vẫn như xưa, có thắp đèn trong ấy. Nó đọc báo, đọc công văn vanh vách:

- Cái giấy này là: Kính gửi ông Lý A Pù, ngày 18 tháng 4 năm 195... ủy ban hành chính huyện trân trọng kính mời ông...; cái báo này là kính gửi ông Lò Văn Nàm, này nhé, xã luận: đế quốc Mỹ âm mưu can thiệp...

Nó đi công văn từ huyện về khắp các xã. Mỗi khi nhắc đến nó, Cắm nói:

- Đồng chí ấy công tác ở huyện. Bận lắm lố. Huyện ta có những hai mươi bốn xã. Mỗi xã một tên. Thế mà nó đọc không nhầm một tên nào. Đọc tên đồng chí ghi trên giấy xong là nó cứ thế đi thẳng một mạch từ huyện xuống đến tận xã có cái tên đó, xã gần nhất cũng là ba chục cây số, ít ra cũng leo hai cái đèo.

Phải nhận nó là một tay đi núi cừ khôi. Mùa mưa nước lũ đánh tan tác những thân gỗ bốn năm người ôm như ta lấy chân đạp giập một que nứa, thế mà nó cũng lội qua được suối. Có khi nó leo lên cây cao, chuyền từ ngọn cây này qua ngọn cây khác như vượn. Hai mươi cây số đường núi, nó đi một buổi, ngựa đi cũng thế thôi chứ gì. Nó còn bảo:

- Bao giờ Đảng cho cái xe về húc bớt mấy cái núi này, mở rộng con đường ra, thì tôi phải đi công tác bằng xe đạp mới được.

Cắm cười:

- Ba hoa nhé!

Nhưng nó còn mỗi một cái khuyết điểm nặng, chắc là huyện chưa biết rõ. Cắm biết rõ, nhưng còn nể nó, chưa thẳng thắn phê bình: đó là nó công tác kém về mùa xuân. Hễ cứ đến mùa xuân, khi những sườn núi Mèo lẫn trong sương mai trắng xóa bắt đầu nở những đóa hoa màu tím nhạt, thì y như rằng hoa tím lại giữ chân đồng chí giao thông huyện ở dọc đường mất thôi. Nó giắt công văn giấy tờ vào lưng quần bên cạnh con dao rừng lúc nào cũng sáng xanh, nó lại bỏ con đường mòn mà lần theo các sườn núi hái hoa. Thành ra đường nó đi dài đến gấp đôi ngày thường. Cắm biết thấu ruột non ruột già  nó rồi: nó hái hoa cho gái.

Nó tạt vào một cái làng ở chỗ đỉnh núi xanh kia; nó lại lưng giắt công văn, chân nhảy lò cò, thổi khèn tặng hoa cho một cô gái Mèo mà Cắm chưa biết mặt bao giờ. Mỗi năm nó lại thay đổi một cô. Nước mắt các cô gái Mèo khổ vì nó và sung sướng vì nó có lẽ đã chảy đầy một cái bát sứ to mua ở dưới phiên chợ tỉnh về...

Thế là hôm nay nó lại làm chậm báo Đảng nữa rồi. Cắm ngồi ở cửa nhà, nghe con chim kêu và thấy trời tím trên đỉnh núi, biết là đêm sắp đến, ruột nóng cồn cào.

Cái thằng!

Cắm đã chùi đi chùi lại khẩu súng trường đến chục lần.Chùi súng xong lại lau đạn. Những viên đạn trông hệt một đàn chuột con vàng chói. Chuẩn bị đến thế rồi mà nó cũng còn chưa về cho Cắm đi ngay. Cắm còn phải đi báo xuống xóm nữa chứ. Cắm là phát hành viên của xã Nà Lường này kia mà. ở dưới xóm, báo đến chậm, người ta lại phê bình Cắm thôi:

- Đồng chí bí thư phát hành viên lên báo chậm lắm lố, khuyết điểm to lố. Chúng tôi chờ nghe báo mòn hết hai con mắt rồi còn gì!

Cắm làm phát hành viên của xã một năm nay. Lúc đầu huyện giao công tác đó, Cắm có hai điều thắc mắc: một là công tác bận lắm - nào vận động nhân dân chăm sóc làm sao cái nương cho tốt, nào lo dựng hai kho thóc ở xóm Nà Ngấn, xóm Văn Thụ chưa xong, nào còn phải tổ chức phân đoàn thanh niên xóm Lâng Lường nữa chứ... trăm công nghìn việc, bận lắm, bận lắm, người bí thư cũng chỉ có hai tay hai chân, không mọc được năm sáu cái nữa đâu, còn phát hành sao nổi. Từ cơ quan xã - tức là nhà Cắm - xuống xóm gần nhất – xã Nà Lường có bốn xóm - cũng mất hai mươi cây số. Hai là Cắm không biết chữ, đưa báo nhầm mất thôi! Đồng chí bí thư huyện ủy không nói gì cả, chỉ gọi Cắm đến trụ sở, mở rộng một tờ báo ra trên bàn, và đọc: “NHÂN DÂN, cơ quan Trung ương của Đảng lao động Việt Nam...”

Thế là Cắm đứng phắt dậy:

- Tôi sai rồi, đồng chí bí thư ạ. Tôi sửa chữa thôi. Báo này cơ quan Trung ương của Đảng, thế thì tôi phải đi. Được, tôi đi được...

Từ đó, hàng ngày buổi chiều Cắm lại chờ thằng cháu về, nhận báo, rồi đi xuống xóm. Cắm đi ngày đi đêm, vai đeo súng, báo cuộn tròn trong ống nứa đeo lưng. Mưa hay nắng, hay gió bão, báo Đảng cũng không dừng lại một ngày, một đêm nào, một giờ nào trên những sườn núi Mèo cheo leo, hiểm trở và ẩn hiện trong mây này...?

Nửa đêm, đồng chí giao thông huyện mới về. Thấy chú còn đốt lửa ngồi chờ, anh ta dừng lại trên ngưỡng cửa, đằng hắng ra hiệu.Cắm không ngẩng đầu lên, giọng nói ồ ồ:

- Còn ho cái gì, vào đây, ngồi đây! Tao phải phê bình mày một trận, không thương đâu.

Cánh cửa mở toang ra. Cùng với khí lạnh của đêm mùa xuân trên núi cao, bỗng tỏa vào nhà một thứ hương hoa tím nhạt, xa vắng và gần gũi, thoang thoảng êm dịu như mùi thơm của cả mùa xuân, của cả núi rừng Mèo. Trong một nháy mắt, mùi thơm đến tận đáy lòng ấy làm nguôi tất cả cơn giận của Cắm.

Nhưng Cắm cũng còn cố ra vẻ càu nhàu:

- Hừ, thôi được, để tao đi kẻo chậm báo đã. Đi về rồi tao mới phê bình mày. Không chỉ phê bình bằng mồm đâu lố, phê bình bằng cả nắm tay nữa, nghe chưa?

Một trận cười giòn tan bỗng vang lên. Cắm đốt lửa suốt đêm vẫn không ấm được căn nhà trống trải của một người suốt đời không vợ con. Thế mà chỉ một trận cười của nó bỗng xua hết khí lạnh đêm khuya, xua hết cái lạnh lẽo trong cả cuộc đời đã đậu trên mái tóc Cắm thành những vết bạc ngày càng loang rộng ra. Nó ngồi xuống bên cạnh. Nó đọc:

- Cái này của ông Lý A Pù lố.

Cắm bảo:

- Xóm Nà Ngấn, biết rồi.

Anh cuộn tờ báo cẩn thận cho đến khi chỉ còn nhỏ bằng thân cây sậy khô, rồi buộc lại bằng một sợi chỉ đỏ. Chỉ đỏ là ông Lý A Pù.

- Cái này của đồng chí Ma Văn Keo.

- Biết rồi, xóm Nà Thăn đấy.

Cắm buộc một sợi chỉ xanh.

- Cái này của ông Mã Thế Sinh.

- Biết rồi, xóm Văn Thụ.

Cắm buộc một sợi chỉ vàng.

- Cái này kính gửi đồng chí Chu Quốc Viên.

Cắm bảo:

- Ở tận xóm Làng Lang đấy nhé.

Anh buộc một sợi chỉ trắng.

Anh nhét tất cả vào ống nứa, đậy nắp cẩn thận, đeo bên hông. Rồi anh đứng dậy, khoác súng lên vai:

- Cơm trong bếp, còn nóng đấy. Thịt nai trong cái chảo. Ăn rồi ngủ đi.

Anh đi ra cửa. Thằng cháu cũng đi ra theo. Đêm đã khuya lắm. Những đỉnh núi Mèo nhọn hoắt in đậm trên một bầu trời lơ thơ rất ít sao. Gà rừng gáy hoảng âm vang vào những vách núi vây tròn lấy cái thung lũng nhỏ bé này. Cắm bảo cháu lần nữa:

- Thịt nai trong cái chảo, ăn rồi ngủ đi.

Anh bước xuống thang.

Ôi, nhớ làm sao những đêm đi cách mạng ngày còn trẻ, tóc còn đen. Đồng chí Văn cũng đến vào những đêm như thế này đây, khi có vài con gà rừng gáy hoảng âm vang và trên các đỉnh núi thì sao đã mờ như sắp tắt. Đồng chí Văn bây giờ cũng viết báo Đảng đấy. Không biết trong báo kỳ này đồng chí có viết không? Xuống xóm phải ngồi nghe báo cho hết mới được. Lần nào cũng vậy, báo xuống tới nơi thì đồng bào cả xóm tập hợp vây quanh lấy Cắm.

- Đồng chí bí thư phát hành viên!

- Đồng chí bí thư phát hành viên!

Một người biết chữ đứng ra đọc báo cho mọi người cùng nghe. Cắm cũng ngồi nghe. Anh gác mũi súng lên vai như những ngày còn đi bí mật xưa kia, chăm chú nhìn vào cái mồm người đọc. Bắt đầu là: NHÂN DÂN, cơ quan Trung ương của Đảng lao động Việt Nam. Trụ sở biên tập số... Hàng Trống. Ra ngày... Xã luận... Người thanh niên đọc một đoạn rồi dừng lại. Cắm đứng lên dịch ra tiếng Mèo. Cắm dịch rành rọt từng câu từng chữ. Này, Đảng nói về việc làm mùa. Này Đảng nói việc đi học chữ. Này Đảng lại nói việc thằng Mỹ Diệm. Bà con ạ, nó vẫn giết người của mình đấy. Nó làm cái máy chém đấy! Cắm chống súng xuống đất và giọng nói của anh âm vang. Cách mạng đã xong đâu. Nó còn giết người cách mạng ở miền Nam kia mà. Cắm phải đi chứ. Cắm già rồi, tóc bạc rồi, không đi xa tới tận miền Nam được để cứu đồng bào trong đó. Cắm phải đi phát hành viên trên rẻo cao này để báo cho mọi người biết cách mạng chưa xong đâu, còn phải đi, còn phải làm nhiều, làm nhiều... Người đọc, người dịch, hết tờ báo từ đầu đến cuối rồi, Cắm lại đeo súng lên vai, chào mọi người, đi xóm khác. Trước khi đi, Cắm tới gần người đọc báo, cười, bảo:

- Còn thiếu một chỗ anh chưa đọc đấy.

- Chỗ nào?

Cắm đưa một ngón tay chỉ vào chỗ góc phía dưới của tờ báo:

- Chỗ này, nói về ông trời với cái gió ấy mà.

- À, còn thiếu thật, còn thiếu thật. Này nhé, tôi đọc nốt nhé.

Mọi người lại xúm đến.

- Tôi đọc đây: “ở miền Bắc nước ta hôm nay trời quang và nắng... Riêng vùng núi phía Bắc và Tây Bắc Bắc Bộ, trời ít mây, thỉnh thoảng có mưa nhỏ rải rác ở một vài nơi...”

Cắm lại đi một mình trong đêm. Đúng như báo Đảng nói, đêm nay trời ít mây và có gió nhẹ. Thỉnh thoảng có mưa, nhưng là mưa nhẹ như sương. Mùa xuân về trên rẻo cao đã làm nở những thứ hoa chỉ thơm ban đêm, kín đáo như nụ cười tình của một cô gái Mèo. Tiếng kêu của một con hoẵng lạc bầy trong rừng khuya nghe như tiếng gọi tha thiết của một con người. Cắm nghĩ chưa bao giờ anh nghe báo nói về tiếng kêu của con hoẵng đó. Nhưng nói làm gì, trên khắp đất nước ta, có nơi nào mà một đêm mùa xuân lại không nghe thấy tiếng kêu tha thiết của một con hoẵng con. Cắm xốc lại dây súng, nhưng không phải để bắn. Anh đi nhanh trong đêm quen thuộc. Cắm đi xóm nào trước bây giờ đây? Đi cái chỉ xanh trước thôi, xa nhất mà.

Đỉnh núi của đồng chí Ma Văn Keo mà Cắm ghi trong trí nhớ bằng một sợi chỉ xanh, chót vót đứng một mình trong mây trắng.../.

Nguyên Ngọc/Bắc Cạn 1959

Chợ phiên vùng cao


14 tháng 8 2024

Tiếng gọi của tự do

(Bài viết của nhà văn Nguyên Ngọc)

Việt Bắc bấy giờ xa cách Khu 5 ba tháng lội bộ vượt Trường Sơn. Năm 1950 mở biên giới phía bắc nối với Trung Quốc và Liên Xô, hai năm sau, hơi hướng của ngọn gió lạ (về sau hóa ra là cả một cơn bão dữ) từ Việt Bắc mới vượt Trường Sơn phả vào tới Khu 5. Chỉnh huấn, chỉnh quân, giáo dục quan điểm đấu tranh giai cấp...

Năm 1953 Khu 5 dè dặt bắt đầu giảm tô và thí điểm cải cách ruộng đất... Về sau tôi sẽ biết chỉ mới một chút dè dặt đó đã để lại biết bao nhiêu hậu quả bi thương. Còn lúc bấy giờ tôi là cậu học trò hăng say và lãng mạn mới vào bộ đội, với giấc mơ tráng sĩ học được trong sách. Và còn mối tình đầu của tôi nữa...

Nhà văn Nguyên Ngọc

Tôi vào bộ đội, được đưa lên trường lục quân Khu 5 bấy giờ đóng ở Đồng Ké, Quảng Ngãi, cũng lăn lê bò toài, nhưng chỉ ít lâu không biết do ai giới thiệu, được lệnh rút về báo Vệ quốc quân Liên khu 5, đóng ở Xuân Phổ, Nghĩa Kỳ, bên bờ sông Trà. Chiến tranh, nhưng ở đây vẫn rất thanh bình, Nghĩa Kỳ có nghề làm mía nấu đường, chúng tôi sống trong nhà dân, sáng nào cũng được bà con cho uống nước “chè hai” tức nước đường vừa chín tới chưa kịp cô đặc, và ăn khoai lang nhúng trong nước chè hai nóng hổi ngon tuyệt.

Cùng về báo với tôi còn có Ngọc Anh, tác giả Bóng cây Kơnia sau này. Cả Lê Công Thành nữa, mấy mươi năm sau sẽ trở thành một nhà điêu khắc hàng đầu của nước ta. Bên cạnh tòa soạn báo, có bộ phận văn nghệ, ở đấy có anh Dương Minh Ninh, anh Lê Trọng Nguyễn, anh Lưu Nghi Hội An ngày trước của tôi, có Phạm Thế Mỹ người sẽ trở thành một nhạc sĩ nổi tiếng ở miền Nam thời chính quyền Sài Gòn...

Những người tài hoa một thời, khi chưa có gì bộc lộ rõ rệt cả, khi tất cả đều còn tiềm tàng, tiềm ẩn, tương lai còn vô số khả năng, cuộc đời rồi sẽ đưa chúng tôi đi theo những con đường không thể ngờ, mỗi người sẽ có một số phận vậy mà hóa ra hết sức khác nhau, dắt dẫn bởi vô số căn nguyên không ai biết trước, thấy trước được dẫu hẳn ngay ngày đó đã âm thầm tích lũy mà nào có ai trong chúng tôi ngờ được. Anh chàng Trương Qua nhạt phèo chúng tôi thường gọi là “họa sĩ sạch sẽ”, bức tranh nào của anh cũng sạch bong như vừa được lau chùi, là tác giả có đến giải thưởng Hồ Chí Minh, anh Dương Minh Ninh tài hoa nhất của chúng tôi thì mãi mãi vô danh trong một thị trấn vô danh bên con đường lên Đà Lạt, lầm lũi đi dạy nhạc cho những đứa trẻ ở đấy để kiếm miếng ăn qua ngày...

Còn tôi ngày ấy là ai? Là ai cái cậu bé mới rời ghế nhà trường, say sưa hát “Xếp bút nghiên”, hăm hở đi vào chiến tranh như đi vào ngày hội, trong đầu vẫn âm âm tiếng hát “Mưa rơi trên sân, mái nhà nghiêng dần...” của người con gái đứng trước tấm màn xanh một màu xanh kỳ lạ, xanh đến vĩnh cữu, màu xanh của tình yêu, của tình đầu. Trong đầu cậu con trai ấy lời hát “Xếp bút nghiên lên đường tranh đấu, xếp bút nghiên coi thường công danh...” với “mái nhà nghiêng dần, ôi buồn trời mưa...” hoàn toàn hòa làm một, chẳng hề đối chọi nhau, chẳng chút lấn cấn nào cả.

Chắc cũng như Quang Dũng, “Tây tiến đoàn binh không mọc tóc” với “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” hoàn toàn là một. Chúng tôi ngày ấy là vậy đó, giấc mơ tráng sĩ và tâm hồn học trò, trong mỗi chúng tôi là cả hai. Để tôi nói luôn điều này: một trong những trận đánh đầu tiên của tôi là trận đánh đồn Kỳ Lam bên bờ sông Thu Bồn. Đêm ấy tôi đi với bộ phận đánh khu hành chính đóng ở ga Kỳ Lam. Đánh suốt ba tiếng đồng hồ, diệt gần hết các mục tiêu rồi, nhưng còn một khẩu đại liên địch bắn bao nhiêu phát DKZ vẫn không sao bắt nó câm họng được.

Tôi nằm ở hàng đầu, cạnh một người lính trong đêm không sao trông rõ mặt. Đạn đại liên bắn rát, đến sém cả tóc. Tôi nằm úp mặt xuống đất mà chịu đựng. Bỗng người lính nằm bên cạnh tôi nắm cả đầu tóc tôi kéo ngược lên và mắng: “Có chết cũng ngẩng đầu lên mà chết, sao lại cúi gầm mặt xuống đất thế!”. Tôi không nhìn rõ mặt người lính ấy, mãi mãi không biết tên anh, cũng không biết là anh còn hay mất. Nhưng đấy là bài học chiến đấu, và bài học làm người đầu tiên của tôi. Suốt đời tôi sẽ nghe vọng mãi lời mắng: “Ngẩng đầu lên! Có chết cũng ngẩng đầu lên mà chết!”...

Tôi đi vào đời như vậy đó, lãng mạn và hiện thực, mềm yếu và rắn rỏi, những vô tư còn chưa tan và những suy tư nghiêm khắc đầu tiên cuộc chiến dạy cho.

Tôi về tòa soạn báo Vệ quốc quân Khu 5, viết những mẩu tin đầu tiên cho báo, thỉnh thoảng tập tò viết đôi cái chẳng ra tường thuật cũng chẳng ra bút ký. Đi tham gia một số chiến dịch, ở Sơn Hà miền tây Quảng Ngãi, ở Điện Bàn - Quảng Nam. Thư ký tòa soạn (đúng ra là chủ nhiệm báo) là anh Trương Khả Liệu (về sau do hoàn cảnh gia đình anh ra khỏi bộ đội, và không đi tập kết. Anh ở lại Sài Gòn, trở thành một nhà thơ ít nhiều có tên tuổi) hỏi tôi muốn làm gì nữa. Tôi trả lời ngay: Xin đi xuống đơn vị chiến đấu, làm phóng viên cũng được, nhưng phải ở đơn vị chiến đấu. Và lên chiến trường Tây Nguyên. Ngọc Anh cũng vậy, hai đứa nằng nặc đòi đi. Và được chấp nhận ngay.

Tại sao lại là Tây Nguyên, nhất thiết Tây Nguyên?

* * *

Trong tủ sách gia đình của ba tôi ngày trước ở Hội An, không có Lan Khai. Tác giả này bị ba tôi liệt vào loại sản xuất hàng chợ. Nhưng tôi có lén đọc được ở nhà anh Châu Tường Anh. Hình như có một số tiểu thuyết tình ái gì đó, nhưng tôi chỉ nhớ những cuốn gọi là “Truyện đường rừng” của ông. Ông viết về những người Mèo trên vùng cao Hà Giang. Hóa ra sau này đấy sẽ là một vùng đất rất quen thuộc, cả thân thiết nữa của tôi, những Đồng Văn, Mèo Vặc, Lũng Cú, Xà Phình, Lũng Phìn, Quản Bạ, Yên Minh. Thậm chí ở đó tôi đã biết một người con gái không thể quên, một người đàn bà Mèo có số phận lạ lùng, mà tôi cũng có phần gắn bó trong số phận và sự lạ lùng đó. Lên vùng cao Hà Giang, tôi biết Lan Khai, bấy giờ sống ở Tuyên Quang, có lên xa lắm cũng chỉ đến thị xã Hà Giang.

Truyện đường rừng của ông viết về người Mèo vùng cao biên giới là do ông nghe ai đó nói lại, người nói lại ấy thì nghe một người khác nói lại... cứ thế chắc qua hàng chục trung gian, cũng có nghĩa là qua hàng chục lần tưởng tượng, hư cấu, sáng tạo. Và ông nhà văn ngồi ở Tuyên Quang, là vùng đất của người Tày, lại dùng cái đầu óc càng giàu tưởng tượng của ông mà thêu dệt thêm ra và viết cho khách Hà Nội, cho cả lũ độc giả vừa lớn lên chúng tôi vồ vập ngốn ngấu. Mà người Mèo là một loại người rất đặc biệt, có gì đó gần với người di gan ở châu Âu, chỉ riêng hình ảnh của họ qua vài lần thoáng nhìn thấy thôi, cũng đủ để cho một người bình thường tha hồ hình dung ra bao nhiêu “truyền thuyết” ly kỳ, huống nữa là nhà văn.

Sau này tôi có đọc được một cuốn sách của một linh mục tên là Savina, cuốn Lịch sử người Miêu (Histoire des Miao của François Marie Savina). Lần theo những con đường của ngôn ngữ học, Savina cho rằng người Miêu, tức người Mèo hay người Mông, vốn có quê gốc lâu đời ở miền đất nằm giữa Lưỡng hà và biển Aral, có tiếng nói gần với tiếng... Phần Lan. Về sau các dân tộc ly tán, người Miêu có một cuộc di cư dài và kỳ lạ, lên tận vòng tròn Bắc cực. Chính vì thế mà trong các truyền thuyết của người Mèo có chuyện đêm dài sáu tháng, ngày dài sáu tháng. Từ Bắc cực họ lại đi dần xuống vùng sông Dương Tử, chiếm miền Trung Nguyên của lục địa Trung Hoa trước khi người Hán đến. Sau đó bị người Hán tràn phía tây sang đánh đuổi, phải chạy dần về phương nam. Khi người Miêu đi về nam, thì các tộc người khác đã chiếm hết các đồng bằng trên lục địa rộng lớn này, nên con đường di cư của họ toàn phải đi trên các đỉnh núi chót vót.

Cao nguyên đá Đồng Văn

Có lẽ đấy là một cuộc đi kỳ lạ nhất trong lịch sử loài người, chuyển từ đỉnh núi này sang đỉnh núi khác, phiêu bạt suốt mấy nghìn năm trên hàng vạn hay hàng triệu cây số, biến họ thành một tộc người chuyên sống trên độ cao chót vót, chỉ có thể sống trên cao chót vót, quen với áp lực của không khí loãng, với những ngọn núi tai mèo lởm chởm cực kỳ cằn cỗi mà họ khai thác tài tình không ai bằng, và chính họ đã tìm ra và là chuyên gia hạng nhất của loại cây sinh lợi nhiều nhất, quyến rũ nhất trên đời: cây thuốc phiện. Savina đã viết những trang say mê hết lời ca ngợi người Mèo.

Mấy nghìn năm trôi dạt giữa hàng chục, hàng trăm dân tộc khác biệt và thù địch, không tổ quốc, không quê hương cố định, vậy mà ý thức gắn bó dân tộc, ý thức về một quốc gia, một quốc gia thường xuyên lưu động lại hết sức sâu đậm, giữ nguyên được ngôn ngữ và bản sắc độc đáo của mình, hầu như không hề suy suyển, pha tạp. Trên đường đi về nam, họ vào Việt Nam ở đỉnh Lũng Cú, chiếm vùng cao nguyên đá kỳ dị Đồng Văn, Mèo Vặc, tràn tiếp sang Lào Cai, Sơn La, Lai Châu, rồi bắc Lào, Thái Lan, Miến Điện...

Người Mèo mạnh mẽ, đằm thắm, trữ tình, mê đắm, mà cũng có thể hung dữ; đàn ông Mèo với khẩu súng kíp tự chế dài ngoẳng là những người chiến binh hầu như không thể đánh bại; đàn bà Mèo cần cù, khéo léo, chịu thương chịu khó, mà cũng lãng mạn, tự do, quyến rũ nhất thế gian... Savina viết: “... sự tồn tại của dân tộc có quá khứ năm nghìn năm này thật sự là một sự kiện lịch sử; việc họ giữ nguyên được ngôn ngữ của mình, không cần có trợ giúp của bất cứ thứ chữ viết nào, bên cạnh những sự ngôn ngữ khác, nhất là ngôn ngữ Trung Hoa có từ năm mươi thế kỷ là một hiện tượng ngôn ngữ học có thể duy nhất trên thế giới...

Dân tộc kỳ lạ chưa hề bao giờ biết đến một tổ quốc cố định này, cũng chưa hề biết đến nô lệ. Độc lập là dấu hiệu khác biệt của người Mèo mọi thời... Một người Mèo già nói: “Chúng tôi biết danh tiếng người ta gán cho chúng tôi. Chúng tôi bị coi là một dân tộc hiếu chiến, tàn ác, là kẻ thù của mọi người. Nếu anh muốn biết sự thật về dân tộc chúng tôi, hãy đi mà hỏi con gấu bị thương vì sao nó chống cự, con chó bị người ta đánh vì sao nó gào thét, con nai bị săn đuổi vì sao nó chạy từ núi này sang núi khác... Dân tộc này, độc lập một cách hung dữ, thà chết và lưu vong chứ không chịu làm nô lệ...”.

Giá ngày ấy Lan Khai đọc được đôi chút Savina thì tiểu thuyết đường rừng về người Mèo của ông còn có thể huyền hoặc hơn nhiều. Nhưng những truyện bịa khá ngờ nghệch của ông ngày nay đọc lại cũng đủ để đánh thức trong tôi một “ẩn ức” tiềm thức: khao khát tự do, không hiểu sao lại đồng nghĩa với núi rừng mơ hồ và xa xôi, với những “rẻo cao”, những bí ẩn rừng rú vừa đáng sợ vừa đẹp, đẹp chính vì đáng sợ, như là tiếng gọi của tự do ấy...

Nguyên Ngọc

(Bài đăng trên tạp chí điện tử Người Đô Thị năm 2016)

Em bé HMong ở dốc Thẩm Mã