Hiển thị các bài đăng có nhãn Văn Cao. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Văn Cao. Hiển thị tất cả bài đăng

16 tháng 9 2024

Hội họa trong di sản của Văn Cao

Năm 1942, Văn Cao đăng ký học lớp dự thính, học cơ bản được một năm ở trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Một năm sau, ông bày  tranh triển lãm. Năm 20 tuổi, Văn Cao có một sê-ri tranh mới lạ với Cô gái dậy thì, Sám hối, Nửa đêm,… tranh của ông có phong cách lập thể. Ông được biết đến như một họa sĩ tiên phong ở phong cách này.

Vợ chồng Mèo đi chợ_ Sơn dầu
Trong kháng chiến chống Pháp, ông minh họa báo,  vẽ tranh. Bức Cổng làng như mở đường cho một thể nghiệm mới trong  hội họa. Ông có nhiều bức minh họa ấn tượng cho các tờ báo văn hóa văn nghệ. Sau khi hòa bình lập lại (1954-1955), Văn Cao tiếp tục nhận thêm việc liên quan đến mỹ thuật, làm trang trí sân khấu để kiếm đồng ra đồng vào nuôi vợ con, với khoảng 300 tác phẩm.

Uống rượu chợ vùng cao_ Sơn dầu (1964)
Nhận xét về những tác phẩm của Văn Cao nhạc sĩ Doãn Nho cho biết: “Những tác phẩm đặc sắc được trưng bày tại triển lãm cho thấy Văn Cao là một họa sĩ thực thụ. Tôi bị thu hút bởi chất thơ và tính nhạc trong các tác phẩm hội họa của ông. Không phải họa sĩ nào vẽ cũng có tứ, có ý như Văn Cao. Mọi chi tiết trong tranh rất gần gũi, truyền cảm và hòa quyện vào nhau” Màu sắc trong tranh của ông thường có sắc độ vừa phải, mang đến cho người xem cảm giác hài hòa. Thậm chí, với những gam màu nóng, ông cũng khéo léo tô, vẽ để mang đến cảm giác dịu nhẹ trong cách nhìn.

Chân dung người vợ Nghiêm Thúy Băng dưới nét cọ của Văn Cao
Là một trong số các chuyên gia nghiên cứu khá sâu về phong cách hội họa của Văn Cao, nhà nghiên cứu, họa sĩ Phan Cẩm Thượng đánh giá: “Văn Cao không có phong cách già dặn hoặc phát triển liên tục như các họa sĩ khác, nhưng tranh của ông trông rất mới và rất trẻ, tức là ông vẫn giữ nguyên từ đầu đến cuối một phong cách. Về minh họa và đồ họa, Văn Cao là một họa sĩ thiết kế thực thụ, rất chuyên nghiệp. Chúng tôi lấy làm tiếc vì ông chẳng phát triển con đường này. Nếu không, ông cũng sẽ là một họa sĩ tiên phong”.

Chân dung Đặng Thai Mai do Văn Cao vẽ

Minh họa báo Lao động Tết 1982

Một số minh họa sách báo, ấn phẩm của Văn Cao










Nhạc sĩ Văn Cao tại nhà riêng gác hai, số 108 Yết Kiêu 1983

14 tháng 9 2024

Một Thoáng Văn Cao _ Phùng Quán

Trích: Ba phút sự thật của nhà văn Phùng Quán ( chương 4)

Hồi còn đánh Mỹ, tôi làm việc ở Vụ Văn hóa quần chúng. Chị Băng, vợ anh Văn Cao làm ở Ban B, cùng trong ngôi nhà 51- Ngô Quyền, Bộ Văn hóa. Hồi ấy giá gạo ngoài ở Thái Bình lên đến 3 đồng một ký. Người Thái Bình đói kéo nhau về Hà Nội ăn xin. Một buổi trưa tôi ngồi uống nước chè chén 5 xu (ghi sổ nợ) ở cái quán xế bên cửa Bộ. Chợt nhìn thấy Văn Cao cùng với Đoàn Văn Chúc - Giảng viên Trường Đại học Văn hóa vịn vai nhau, chếnh choáng, xỉêu vẹo đi ngang qua. Tôi ơi ới gọi hai anh vào uống nước, hút thuốc. Lâu không gặp Văn Cao, tôi sửng sốt thấy gương mặt anh bạc trắng như tờ giấy, hai má hóp sâu, chòm râu lơ thơ làm cho khuôn mặt anh càng thêm nhọn hoắt. Trong quán lúc này có bốn năm người khách. Họ đều nhìn anh. Và tôi biết chắc là họ không biết anh là ai.

- Anh hút thuốc lào đi. 

Tôi đưa điếu cày cho anh, nói với chị chủ quán: 

- Chị cho tôi gói thuốc lào

Văn Cao chậm rãi thông điếu, hỏi chị chủ quán:

- Thuốc lào của chị là thuốc lào Tây hay thuốc lào ta?

Chị chủ quán ngơ ngác:

- Làm gì có thuốc lào Tây ạ?

Tôi cười giải thích:

- Ý anh ấy muốn hỏi thuốc lào của chị là thuốc lào mậu dịch hay thuốc lào chui. Thuốc lào mậu dịch là thuốc lào Tây.

Chị chủ quán nói:

- Thế thì thưa ông anh, thuốc lào Tây ạ, em không có thuốc lào ta.

Một ông khách móc túi lấy gói thuốc lào bọc trong túi giấy bóng, đưa cho anh:

- Tôi có thuốc lào ta đây. Chính hiệu Tiên Lãng, mời ông ăn thử.

Văn Cao đỡ gói thuốc lào, vê một điếu bỏ vào nõ, nói với ông khách:

- "Ăn thuốc" đó mới đúng là ngôn ngữ của người ghiền thuốc lào - Văn Cao rít một hơi tận sức, từ từ nhả khói - Đúng là chính hiệu Tiên Lãng, ông cho tôi xin thêm điếu nữa?

- Mời ông cứ tự nhiên.

Văn Cao hỏi tôi:

- Quán có tiền đó không, cho mình vay 5 đồng. Hai thằng từ sáng đến giờ chỉ toàn rượu suông, muốn đi ăn bát cháo.

- Em chỉ có ba đồng, anh cầm tạm.

Văn Cao bỏ tiền vào túi. Hai người đứng lên, lại vịn vào nhau, xiêu vẹo dắt nhau đi.

Ông khách cho thuốc lào ái ngại nhìn theo hai người đi khuất ở ngã tư Ngô Quyền - Trần Hưng Đạo:

- Nhìn cái nước da trắng bệch của ông ta mà tôi phát sợ. Chắc chẳng còn sống được bao lâu nữa.

Tôỉ hỏi ông:

- Ông có biết ông ấy là ai không?

- Không, tôi đoán là dân ở Thái Bình mới lên. Từ hôm gạo lên 3 đồng một ký, dưới đó nhiẻu người đứt bữa…

Tôi nói:

- Ông ta là người đã viết một bài hát mà mỗi lần hát ìên, cả nước phải đứng nghiêm, kể cả cụ Hồ.

Ông khách trợn tròn mắt:

- Ông ta là nhạc sĩ Văn Cao?

- Đích thị là Văn Cao!

Ông khách đang uống dở hớp nước, ngồi ngẩn ra một lúc lâu như người bị nghẹn, rồi buông lửng một câu:

- Thế thì còn ra thế nào nữa…!

Lát sau chị Băng từ trong cửa Bộ đi ra. Vừa nhìn thấy tôi, chị túm lấy hỏi:

- Từ sáng tới giờ anh có thấy anh Văn đi ngang qua đây không?

- Anh vừa đi cách đây hai mươi phút. Anh hỏi vay tôi năm đồng, tôi chỉ có ba đồng đưa cho anh.

- Có khổ thân tôi không! Ở nhà khách người ta đợi suốt từ sáng tới gần trưa.

- Khách ở đâu đến mà quan trọng thế? Chắc là nhà báo quốc tế đến phỏng vấn anh về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác.

Chị Băng nhăn nhó khổ sở:

- Khách từ Hà Giang xuống, ở Xí nghiệp chế biến chè. Họ muốn nhờ anh Văn vẽ cho cái nhãn chè. Người ta đem xuống 50 đồng với 10 gói chè loại 1. Chờ mãi không được thế là người ta đem tiền, đem chè đi nhờ họa sĩ khác.

Nghe chị kể tôi cũng thầm tiếc cho anh. 50 đồng với 10 gói chè Hà Giang loại 1. Chao ôi, thật đáng tiếc!

Hôm sau tôi gặp Văn Cao, kể lại chuyện hôm qua, hỏi anh:

- Sao anh lại bỏ dở một cái đơn đặt hàng ngon lành thế? Hay anh quên?

- Mình nhớ chứ, chỉ cần ngoạch trong nửa tiếng là có 50 đồng… Nhưng mình bỏ đi lang thang uống rượu suông với thằng Chúc và phải hỏi vay con gái.

Anh lắc đầu:

- Mình rất cần tiền mà cũng vô cùng chán tiền…

* * *

Tôi được quân đội cách mạng giáo dục từ ngày còn là một thiếu niên: "Nhân tài là báu vật của Tổ Quốc. Những người lính chúng ta có nhiệm vụ phải chăm nom, săn sóc, bảo vệ họ như con ngươi của mắt mình".

Năm tôi 17 tuổi là lính trinh sát của Trung đoàn 101. Tôi được cử vào đội bảo vệ cho một nhóm văn nghệ sĩ có tên tuổi ở vùng tự do khu Bốn đi thực tế chiến trường. Chính uỷ trung đoàn Trần Quý Hai đã đến chỉ thị và dặn dò chúng tôi như vậy. Lúc đó chiến trường Thừa Thiên bom đạn đầy trời, chật đất. Sau hơn một tháng đội chúng tôi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên giao. Hơn một chục trận càn vây ráp lớn nhỏ nhưng bọn giặc không đụng được cái lông chân của văn nghệ sĩ. Đội bảo vệ chúng tôi có 8 người, hy sinh mất hai. Còn tôi thì bị thương ở cẳng chân, suýt nữa phải cưa trên đầu gối. Bao nhiêu năm tháng trôi qua, tôi đã trở thành người lính già đầu bạc, nhưng lời dặn dò của chính uỷ ngày đó vẫn còn tươi nguyên trong ký ức của tôi.

Năm nhạc sĩ Văn Cao 60 tuổi, tôi có làm bài thơ chúc thọ anh, trong đó có đoạn như sau:

Chúng tôi thường mơ đến anh

Như trẻ nhỏ mơ đến những anh hùng, truyền thuyết

Chúng tôi thường mơ

Một hôm nào đó nhạc sĩ Văn Cao bị bốn bề vây súng giặc

Chúng tôi sẽ xông ra lấy ngực che đạn cho anh

Chúng tôi thường mơ

Trên chiến trường quê hương Trị Thiên

Chúng tôi sẽ đánh một trận lừng danh đất nước

Trên sông Hương, sông Thạch Hãn, sông Bồ

Để anh về anh viết trường ca

Như Trường ca Sông Lô!…

Minh họa của Văn Cao trên một số tờ báo, tạp chí