Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyên Ngọc. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyên Ngọc. Hiển thị tất cả bài đăng

31 tháng 7 2025

Tôi có một người bạn tử tế

Bài viết của nhà văn Nguyên Ngọc 

Hình như về âm vọng chữ “tử tế” còn thường để chỉ thái độ cẩn trọng, kỹ lưỡng đối với những gì tưởng là nhỏ, nhỏ nhoi, gần như không đáng kể hoặc không ai biết, không ai chú ý, chỉ có tự mình biết với lòng mình thôi...



Tôi có một người bạn rất tử tế.

Tôi có cẩn thận hỏi một nhà Hán học theo từ nguyên thì hai từ “tử tế” nghĩa là sao, được giảng cho rằng “tử” có nghĩa là gánh vác, còn “tế” là nói về sự kỹ lưỡng, cẩn trọng, tinh tường. Tôi nghĩ thêm đấy là truy theo gốc chữ Hán, còn khi đã thành từ Hán Việt tức của người Việt dùng, thì hình như về âm vọng chữ “tử tế” còn thường để chỉ thái độ cẩn trọng, kỹ lưỡng đối với những gì tưởng là nhỏ, nhỏ nhoi, gần như không đáng kể hoặc không ai biết, không ai chú ý, chỉ có tự mình biết với lòng mình thôi, vậy mà mình vẫn một mực thấy trách nhiệm gánh vác, không thì lòng dạ không thể yên.

Anh bạn tôi là người miền Bắc, vào miền Nam đâu khoảng trước Hiệp định Paris ít lâu, tức đầu năm 1973, thuộc một đơn vị chi viện cho chiến trường chúng tôi. Những đơn vị như vậy do trung ương phái vào khi một địa phương nào đó cần thiết, phối hợp đánh năm ba trận, rồi trở ra hoặc chuyển sang chiến trường khác. Đơn vị anh ấy đến hoạt động ở một vùng giáp ranh. Từ “giáp ranh” hồi đó thường có hai nghĩa: đấy là vùng nửa núi nửa đồng bằng, nói chữ thì gọi là “bán sơn địa”, toàn gò đồi, cho đến thời 1972-1973 thì đã bị chiến tranh quét sạch chẳng còn chút màu xanh nào trên mặt đất, rất thuận lợi cho quân Mỹ và lực lượng Sài Gòn triển khai sử dụng binh khí kỹ thuật hiện đại. Giáp ranh cũng là vùng giành đi giật lại giữa hai bên, đến nát ra. Nên rất ác liệt, và rất thưa dân. Sót lại chỉ còn là những túp lều tạm bợ, bị bắn nát hay bị đốt đi đốt lại không biết bao nhiêu lần, mỗi gia đình thường chỉ còn cố gắng trụ lại trong túp lều rách nát ấy một người để mà giữ ruộng hay rẫy, những người khác đều đã tìm cách chạy lên núi hoặc lánh vào thành phố qua ngày... Tất cả cứ như đã được sắp sẵn, cảnh và người, và cả cái không khí đặc biệt vừa gay gắt và chập chờn sống nay chết mai chẳng có gì chắc chắn cả, vừa lãng mạn và dễ có chút liều lĩnh một cách kỳ lạ... để cho anh bạn tôi, sĩ quan trẻ, học sinh mới ra trường, đánh nhau loại khá, lại cũng có bắt đầu viết lách đôi chút…, anh bạn trẻ của tôi gặp tấn kịch nhỏ của đời mình. Anh được bố trí ở trong một túp lều như vậy, và ở đấy có một người trụ lại một mình, một thiếu phụ lỡ làng vì chiến tranh, hết sức quê mùa, chất phác, hoàn toàn mù chữ. Và rồi chuyện khó tránh đã xảy đến. Chỉ có anh biết. Chỉ có chị biết... Và rồi đơn vị anh ra đi, anh ra đi, cả hai đều hiểu hẳn sẽ không bao giờ còn trở lại.

 

... Hiệp định Paris rồi, nhưng chiến tranh đâu có kết thúc ngay, càng khó khăn và ác liệt một cách khác, mấy năm sau mới chịu chấm dứt. Anh rời quân ngũ, trở về quê, một thành phố biển yên bình và đẹp. Có vợ có con, chị ấy trẻ đẹp, cũng có thể gọi là một nữ trí thức. Một gia đình nhỏ hạnh phúc...

Nhưng rồi anh bạn tôi là một người như thế đấy, khổ nỗi, anh là một người tử tế. Nên anh không yên, không thể yên. Bởi anh còn có một người khác, một số phận khác mà dẫu sao anh cũng đã gặp trong đời, dù chỉ thoáng qua, ở cái vùng gò đồi giáp ranh xơ xác và bom đạn ấy, một thiếu phụ cô đơn đã đến với anh, một người phụ nữ rất quê mùa, mù chữ, một con người. Một số phận. Con người ấy đã cho anh một phút hạnh phúc trong chiến tranh. Nay không biết mất hay còn. Và số phận? Anh muốn đi tìm chị. Từ khi anh ra đi, chiến tranh vẫn còn tiếp tục đến những ba năm nữa. Chị còn không, cuộc đời chị ra sao... Và biết đâu, anh có thể còn để lại đấy một giọt máu của mình. Nghĩa là có thể không chỉ còn có một, mà đến hai cuộc đời... Anh đang viết một cuốn sách, về những người đàn bà trong chiến tranh còn sống sót sau chiến tranh khi tuổi xuân của họ đã đi qua, đã mất... Anh gác cuốn sách dở dang lại, và anh ra đi, trở về nơi chiến trường xưa. Anh có cảm giác đang đi vào chính cuốn sách dở dang của mình...

Họ đã gặp lại nhau. Mừng tủi. Hóa ra đúng là anh đã để lại nơi đây một giọt máu. Cậu bé đã mười tuổi, nó gọi ngay anh bằng “Cha!”. Anh ôm nó vào lòng. Còn chị. Chị khóc kể với anh rằng sau khi anh đi, chiến tranh, chiến tranh, biết anh đi về đâu, biết còn biết mất. Chị đã đi bước nữa, với một người lính Sài Gòn, anh ấy đã cưu mang chị khi chị bụng mang dạ chửa giữa cái vùng giáp ranh dành đi giật lại đến tan nát giữa hai kẻ thù sống mái còn chị thì đứng ở giữa, mắc kẹt giữa chiến tranh và trong số phận. Nó, chiến tranh và số phận, nó vẫn chưa tha chị. Anh lính cộng hòa của chị cũng lại chết trận...

Anh bạn tôi là người tử tế. Anh về, thú thật tất cả với vợ con. Chị ấy đau khổ, chị ấy giận hờn. Nhưng mẹ anh thì hiểu, bà thương con dâu và bà thương cả người đàn bà ở trong kia, bà quý và mong đứa cháu nội không ngờ. Bà rỉ rả an ủi, khuyên nhủ, thuyết phục con dâu. Chúng tôi, bạn bè của anh chị, phần đông cũng từng qua chiến tranh cả rồi, chúng tôi cũng tìm cách nhẹ nhàng góp vào... Và ở đời vẫn còn có chỗ để cho ta tin ở sự tốt đẹp của con người. Và của thế gian. Vợ chồng bạn tôi đã đưa được cậu con trai giọt máu rơi của anh trên đất chiến trường xưa về cùng sống với gia đình, lo cho cậu ăn học, nay đã trưởng thành, có nghề nghiệp đàng hoàng...

Gần đây anh bạn tôi có về thăm lại xứ Quảng chiến trường xưa, có ghé lại chỗ tôi chơi. Hôm ấy trời mưa rất to. Tôi hỏi hơi trêu anh: “Thế nào, lại về thăm Giáp ranh chứ?” Anh bảo nhất định rồi. - Nhưng mưa to quá thế này, đi làm sao? - Không lo, chốc nữa sẽ có xe đón...

Lát sau có người đưa xe đến đón thật. Một cô gái bước vào chào chúng tôi và xin phép đón cha đi. Tôi thật u mê, tôi nghĩ chắc đấy là con gái anh ở quê ngoài Bắc bây giờ vào làm việc trong này. Tôi hỏi: “Cháu vào trong này lâu chưa?” Cô gái ngạc nhiên: “Dạ không, cháu ở trong này chớ, có ở đâu mà vào!...”. Đặc giọng Quảng.

Trong mưa tầm tả hai cha con ríu rít ra đi. Tôi ngồi sững một lúc, mới chợt hiểu: cô gái đến đón cha cùng về thăm mẹ ấy là con của người đàn bà vùng giáp ranh với người lính Sài Gòn, anh ấy đã tử trận khi chị còn chưa kịp sinh ra cô. Anh bạn tôi đã nhận cả cô như là con gái ruột thịt của mình, chăm lo cho cô ăn học, trưởng thành, đã có chồng con và công ăn việc làm đàng hoàng.

Nhà Hán học tôi nhờ đã giảng cho tôi, theo từ nguyên, người tử tế là người biết “gánh vác kỹ lưỡng, cẩn trọng, chu đáo...” và tôi xin phép thêm “... cho đến việc nhỏ nhất, tinh tế nhất ở đời...” Những điều, những việc thường cứ như có thể coi là nhỏ nhặt, bỏ qua, nhất là khi chỉ có mình biết, sống để dạ chết mang đi cũng nào có ai hay... Nhưng mà, vậy đó, anh bạn tôi không bỏ qua, cứ một mực tự mình ngoan cố gánh vác. Không ai biết, nhưng lòng mình thì biết. Ở cái chỗ mà người ta gọi rất trừu tượng và vô hình là lương tâm...

Người tử tế là người biết rằng việc nhỏ lại có thể rất lớn, vì nó là việc về con người…

Nguyên Ngọc



15 tháng 9 2024

Rẻo cao

Truyện ngắn của Nguyên Ngọc 

Ông Cắm bỏ nhà đi hoạt động cách mạng, mải việc nước đến quên cả lấy vợ. Về già, ông về quê, “làm cách mạng” bằng việc chuyển thư từ, báo Đảng xuống các làng bản.

Thế là chuyến công văn hôm nay lại lên muộn rồi.

Đồng chí Cắm, bí thư xã Nà Lường sốt ruột lắm. Nước ở con suối đầu bản róc rách nhỏ từng giọt vào trong lòng, trong ruột Cắm.

- Mùa xuân lại làm chậm báo Đảng mất rồi. Ông trời đẹp lại giữ đồng chí giao thông huyện ở dọc đường rồi. Lần này không thương nó được nữa, phải phê bình nó một trận chứ. Nó yêu cái hoa mùa xuân hơn cái báo Đảng sao. Cái thằng!

Đồng chí giao thông huyện chính là cháu gọi Cắm bằng chú. Cắm biết nó từ khi nó mới lọt lòng mẹ, nó còn bằng cái nắm tay thế này, nó đỏ như một hòn máu. à, thế mà nó nhớn nhanh hơn một cái cây bên suối đấy. Không biết cái gì nuôi nó nhớn nhanh thế. Đi ra ngoài nương, đi về trong nhà, đã thấy nó nhớn bằng con lợn ba tháng rồi. Tra lúa, lúa có sữa, nó đã nhớn bằng con hoẵng con rồi. Lúa chín thì nó biết ngồi. Gặt lúa thì nó biết đứng. Lại đốt nương thì nó biết đi.

Từ đó, Cắm cứ tính tuổi nó bằng mùa mưa. Một mùa mưa, hai mùa mưa, ba mùa mưa. Thằng bé lúc đầu còn như một con bê, sau nó thành một con chó lài, sau dần dần thì nó đã trở thành một con cọp, một con cọp thật đấy. Rừng nào, núi nào nó cũng không chừa. Bụng nó sáng như thắp đèn trong ấy. Cái gì nó cũng biết, chỉ có cái sợ là nó chưa biết.

Cứ mỗi mùa mưa, Cắm lại quệt cho nó một cái quệt than đen sì lên cây cột nhà. Năm cái quệt, sáu cái quệt, bảy cái quệt. Cắm tính tuổi cho nó nhưng lại quên tính tuổi cho mình: khi cây cột của thằng bé được bảy cái quệt than, thì quanh mồm Cắm đã lún phún đầy râu là râu.

Nhưng năm đó xảy đến một việc lớn lắm, việc đó làm cho Cắm bỏ cái cột nhà còn trơ bảy cái quệt than đấy, không quệt thêm được cái nào nữa. Năm ấy, ông Cụ qua bản. Thoạt đầu thì Cắm rất lạ. Cái lạ đó đến bây giờ cũng còn lạ.

Ừ, cũng mùa xuân như thế này đây. Cũng con suối đầu làng ấy, cũng nước róc rách chảy như thế đó. Cũng những vách núi cheo leo vây kín cái thung lũng hình sừng trâu này. Có gì khác đâu. Nhưng sao lại xảy đến một việc lạ như thế? Trên cái làng Mèo chót vót đỉnh núi quanh năm mây phủ này, nếu khi nào có khách lạ đến thì đó cũng chỉ là một con hổ đói mồi, một con lợn rừng lạc bầy. Chưa bao giờ có khách lạ là người đến đây, lội qua cái suối này, leo lên hòn đá này, bước lên cái thang này, ngồi vào trong nhà này.

Thế mà lần ấy lại có người khách đến. Người gì? Lúc đó không ai biết rõ. Ông Lãi thì bảo: người Tày đấy! Ông Thá thì bảo: người Nhắng đấy! Ông già Rỉ chột mắt, cái gì cũng biết thì bảo: người Mèo ta thôi. Bà cụ Kiên thì bảo: không phải đâu, người Kinh đấy lố. Nhưng ông cụ già nhất làng gọi riêng Cắm ra đầu suối nói rằng: tất cả đều không ai nói đúng, đó là người cách mạng! Người cách mạng là giống người nào, xưa nay Cắm chưa nghe nói đến.

Cắm được nhìn ông Cụ có mỗi một lần, một lần dài suốt một đêm, thế mà bây giờ còn tiếc mãi, tiếc mãi. Biết thế khi đó ta nhìn nhiều nữa cho no mắt. Bởi vì ông Cụ có phải là ai lạ đâu. Ông Cụ chính là Bác bây giờ! Ông Cụ chỉ ghé qua cái làng Mèo có mỗi một đêm mưa. Rồi đi. Ông Cụ đi về phía trước mặt kia, chỗ vách núi vẫn dựng cao vòi vọi.

Sau đó ít lâu, Cắm cũng bỏ nhà, bỏ nương, bỏ cả thằng cháu bé, bỏ cả cây cột nhà mới quệt được bảy cái quệt than mà ra đi. Cắm đi năm năm, chưa một lần nào được gặp lại ông Cụ nữa. Nhưng Cắm biết rõ là mình đi theo ông Cụ đây. Mỗi con suối Cắm lội qua, mỗi ngọn núi Cắm leo lên, mỗi bước chân Cắm bước đi trên đường, Cắm đều nghĩ chắc chắn rằng: bước chân ông Cụ cũng đã giẫm lên chỗ này đây và thế thì nhất định là đi đúng con đường tốt rồi. Con đường đó Cắm đi năm năm thì tới ngày Độc lập.

Khi cách mạng đã lên rồi, Cắm trở về làng. ồ, cái thằng bé gọi Cắm bằng chú. Coi kìa! Nó đã trở thành một thằng con trai lớn tồng ngồng. Cái lưng nó đã rộng bè bè và hơi cong lại như lưng một con thú rừng sắp vồ mồi. Tóc nó đen và dài. Và cặp mắt nó thì đích thị là cặp mắt của một người Mèo thực sự, xếch lên một chút, sáng như hai đốm lửa trong rừng khuya và sâu đến nao lòng những cô gái nào vô tình nhìn vào đấy. Mới đầu, nó không nhận ra Cắm. Cái thằng bé!

- Mày không nhận ra tao nữa à? Tao nuôi mày từ khi mày còn đỏ như hòn máu đấy. Tay tao tắm cứt trâu trên đầu cho mày ở suối này đấy. Mày không biết sao? Tao quệt cho mày bảy cái quệt than đen đấy!

Thế là nó nhảy tới, đúng là một con thú rừng thật, nó nhảy tới vồ lấy chú nó, rú lên:

- A, chú Cắm, chú Cắm, chú đi cách mạng đã về rồi! Thế còn ông Cụ có về với chú không?

Cắm ngồi xuống sàn nhà, dựng khẩu súng vào giữa hai chân, gác mũi súng lên vai:

- Ừ, tao già rồi. Cách mạng chưa xong đâu, tao về rồi mày lại đi đấy. Ông Cụ còn đi cách mạng, đã xong đâu mà về. Còn gian khổ đấy. Còn thằng giặc đấy.

Cắm đã già đi nhiều thật. Anh leo thang, hai đầu gối mỏi dừ. Ngày trước đuổi con nai một ngày trong rừng, gối con nai nhão đi rồi, gối Cắm gõ còn kêu boong boong như gỗ lim. Thế mà bây giờ... Các đồng chí bảo: Cắm già, yếu rồi!

Cắm không nghe. Cách mạng chưa xong không chịu về đâu! Các đồng chí phê bình. Phê bình thì phê bình, Cắm cũng đi cách mạng cho đến cùng kia. Ông Cụ đấy, không già như ông nội Cắm sao, ông Cụ còn đi kia mà. Về sau các đồng chí giao nhiệm vụ cho Cắm: Cắm về xã, về làm cách mạng ở xã. ở xã cũng phải làm cách mạng chứ. ở đâu còn có người khổ, ở đấy đều phải làm cách mạng. Ừ, thế thì Cắm về...

Mười năm qua, Cắm về làm cách mạng ở cái xã Mèo cheo leo trên đỉnh núi này. Mùa mưa đến, mùa mưa đi, rồi mùa mưa lại đến, như một người bạn chí tình, không bao giờ lỗi hẹn. Tóc Cắm dần dần bạc đi từng sợi.

Nhưng cách mạng thì Cắm không bỏ được. Cắm làm chủ tịch xã. ừ, cũng vào dạo một mùa mưa, tiếng súng nổ dưới Phủ Thông Đèo Giàng, Cắm dẫn một đoàn dân công Mèo đi vác súng, đạn, gạo ăn, nước uống cho bộ đội. Đoàn dân công của Cắm đi gần một con trăng, đến khi về thì thiếu mất một người. Người đó là thằng cháu của Cắm. Nó chẳng mở miệng nói với Cắm một tiếng nào cả. Suốt mười ngày Cắm thấy nó lầm lầm lì lì, mặt lúc nào cũng như cái mặt của hòn đá thế. Cắm bảo bụng: nó nghĩ cái gì thế? Sao nó không hát nữa, sao nó không đùa nữa? Hàng ngày nó hát hay đến cháy trái tim con gái Mèo kia mà? Hay là nó mất tinh thần rồi? Hừ, tao nuôi mày lớn lên bằng này mà mày làm nhục tao à! Một buổi sáng, nó nói với Cắm:

- Chú à, cháu cũng đi cách mạng thôi.

- Đi dân công cũng là đi cách mạng chứ.

- Không, cháu đi cách mạng với bộ đội kia.

Thế là nó đi.

Mãi đến lúc đó Cắm mới sực nhớ ra rằng nó đi rồi thì mình còn có ai thân thích nữa đâu. Cắm lớn lên như một cái cây trơ trụi giữa bãi tranh, không có cha, không có mẹ. Thằng cháu của Cắm cũng thế, mới lọt lòng mẹ thì nó đã là một thằng bé mồ côi. Cắm nuôi nó, lo cho nó mà quên lấy vợ cho mình.

Rồi Cắm đi cách mạng. Rồi Cắm lại về với nó. Bây giờ nó đi ư? Cắm lại như cái cây đứng chơ vơ giữa đám tranh dày. Trên đường từ mặt trận về nhà, leo qua đèo Keo Cọ trắng xóa, bụng Cắm lao lung biết chừng nào, khi buồn vì nó đã đi, khi vui vì nó đã nên một người Mèo cách mạng, bụng Cắm lao lung như con suối khi gặp một ngả quẹo quá ngặt, nó dồn nước lại, lưỡng lự không biết chảy đi đâu, rồi nó tràn lên đầy ắp cả hai bờ... ít lâu sau Cắm làm thêm bí thư xã nữa. Lại đi tiếp tế cho bộ đội, lại đi họp trên huyện, lại lãnh đạo nhân dân tăng gia. Mùa mưa đến. Mùa mưa đi...

Thế rồi một hôm thằng bé trở về. Nó bảo:

- Chú ơi, thắng giặc rồi. Bây giờ tôi về làm cách mạng ở xã đây. Nó về làm giao thông cho huyện. Huyện chọn nó làm giao thông vì nó đã học được chữ ở bộ đội. Bụng nó vẫn như xưa, có thắp đèn trong ấy. Nó đọc báo, đọc công văn vanh vách:

- Cái giấy này là: Kính gửi ông Lý A Pù, ngày 18 tháng 4 năm 195... ủy ban hành chính huyện trân trọng kính mời ông...; cái báo này là kính gửi ông Lò Văn Nàm, này nhé, xã luận: đế quốc Mỹ âm mưu can thiệp...

Nó đi công văn từ huyện về khắp các xã. Mỗi khi nhắc đến nó, Cắm nói:

- Đồng chí ấy công tác ở huyện. Bận lắm lố. Huyện ta có những hai mươi bốn xã. Mỗi xã một tên. Thế mà nó đọc không nhầm một tên nào. Đọc tên đồng chí ghi trên giấy xong là nó cứ thế đi thẳng một mạch từ huyện xuống đến tận xã có cái tên đó, xã gần nhất cũng là ba chục cây số, ít ra cũng leo hai cái đèo.

Phải nhận nó là một tay đi núi cừ khôi. Mùa mưa nước lũ đánh tan tác những thân gỗ bốn năm người ôm như ta lấy chân đạp giập một que nứa, thế mà nó cũng lội qua được suối. Có khi nó leo lên cây cao, chuyền từ ngọn cây này qua ngọn cây khác như vượn. Hai mươi cây số đường núi, nó đi một buổi, ngựa đi cũng thế thôi chứ gì. Nó còn bảo:

- Bao giờ Đảng cho cái xe về húc bớt mấy cái núi này, mở rộng con đường ra, thì tôi phải đi công tác bằng xe đạp mới được.

Cắm cười:

- Ba hoa nhé!

Nhưng nó còn mỗi một cái khuyết điểm nặng, chắc là huyện chưa biết rõ. Cắm biết rõ, nhưng còn nể nó, chưa thẳng thắn phê bình: đó là nó công tác kém về mùa xuân. Hễ cứ đến mùa xuân, khi những sườn núi Mèo lẫn trong sương mai trắng xóa bắt đầu nở những đóa hoa màu tím nhạt, thì y như rằng hoa tím lại giữ chân đồng chí giao thông huyện ở dọc đường mất thôi. Nó giắt công văn giấy tờ vào lưng quần bên cạnh con dao rừng lúc nào cũng sáng xanh, nó lại bỏ con đường mòn mà lần theo các sườn núi hái hoa. Thành ra đường nó đi dài đến gấp đôi ngày thường. Cắm biết thấu ruột non ruột già  nó rồi: nó hái hoa cho gái.

Nó tạt vào một cái làng ở chỗ đỉnh núi xanh kia; nó lại lưng giắt công văn, chân nhảy lò cò, thổi khèn tặng hoa cho một cô gái Mèo mà Cắm chưa biết mặt bao giờ. Mỗi năm nó lại thay đổi một cô. Nước mắt các cô gái Mèo khổ vì nó và sung sướng vì nó có lẽ đã chảy đầy một cái bát sứ to mua ở dưới phiên chợ tỉnh về...

Thế là hôm nay nó lại làm chậm báo Đảng nữa rồi. Cắm ngồi ở cửa nhà, nghe con chim kêu và thấy trời tím trên đỉnh núi, biết là đêm sắp đến, ruột nóng cồn cào.

Cái thằng!

Cắm đã chùi đi chùi lại khẩu súng trường đến chục lần.Chùi súng xong lại lau đạn. Những viên đạn trông hệt một đàn chuột con vàng chói. Chuẩn bị đến thế rồi mà nó cũng còn chưa về cho Cắm đi ngay. Cắm còn phải đi báo xuống xóm nữa chứ. Cắm là phát hành viên của xã Nà Lường này kia mà. ở dưới xóm, báo đến chậm, người ta lại phê bình Cắm thôi:

- Đồng chí bí thư phát hành viên lên báo chậm lắm lố, khuyết điểm to lố. Chúng tôi chờ nghe báo mòn hết hai con mắt rồi còn gì!

Cắm làm phát hành viên của xã một năm nay. Lúc đầu huyện giao công tác đó, Cắm có hai điều thắc mắc: một là công tác bận lắm - nào vận động nhân dân chăm sóc làm sao cái nương cho tốt, nào lo dựng hai kho thóc ở xóm Nà Ngấn, xóm Văn Thụ chưa xong, nào còn phải tổ chức phân đoàn thanh niên xóm Lâng Lường nữa chứ... trăm công nghìn việc, bận lắm, bận lắm, người bí thư cũng chỉ có hai tay hai chân, không mọc được năm sáu cái nữa đâu, còn phát hành sao nổi. Từ cơ quan xã - tức là nhà Cắm - xuống xóm gần nhất – xã Nà Lường có bốn xóm - cũng mất hai mươi cây số. Hai là Cắm không biết chữ, đưa báo nhầm mất thôi! Đồng chí bí thư huyện ủy không nói gì cả, chỉ gọi Cắm đến trụ sở, mở rộng một tờ báo ra trên bàn, và đọc: “NHÂN DÂN, cơ quan Trung ương của Đảng lao động Việt Nam...”

Thế là Cắm đứng phắt dậy:

- Tôi sai rồi, đồng chí bí thư ạ. Tôi sửa chữa thôi. Báo này cơ quan Trung ương của Đảng, thế thì tôi phải đi. Được, tôi đi được...

Từ đó, hàng ngày buổi chiều Cắm lại chờ thằng cháu về, nhận báo, rồi đi xuống xóm. Cắm đi ngày đi đêm, vai đeo súng, báo cuộn tròn trong ống nứa đeo lưng. Mưa hay nắng, hay gió bão, báo Đảng cũng không dừng lại một ngày, một đêm nào, một giờ nào trên những sườn núi Mèo cheo leo, hiểm trở và ẩn hiện trong mây này...?

Nửa đêm, đồng chí giao thông huyện mới về. Thấy chú còn đốt lửa ngồi chờ, anh ta dừng lại trên ngưỡng cửa, đằng hắng ra hiệu.Cắm không ngẩng đầu lên, giọng nói ồ ồ:

- Còn ho cái gì, vào đây, ngồi đây! Tao phải phê bình mày một trận, không thương đâu.

Cánh cửa mở toang ra. Cùng với khí lạnh của đêm mùa xuân trên núi cao, bỗng tỏa vào nhà một thứ hương hoa tím nhạt, xa vắng và gần gũi, thoang thoảng êm dịu như mùi thơm của cả mùa xuân, của cả núi rừng Mèo. Trong một nháy mắt, mùi thơm đến tận đáy lòng ấy làm nguôi tất cả cơn giận của Cắm.

Nhưng Cắm cũng còn cố ra vẻ càu nhàu:

- Hừ, thôi được, để tao đi kẻo chậm báo đã. Đi về rồi tao mới phê bình mày. Không chỉ phê bình bằng mồm đâu lố, phê bình bằng cả nắm tay nữa, nghe chưa?

Một trận cười giòn tan bỗng vang lên. Cắm đốt lửa suốt đêm vẫn không ấm được căn nhà trống trải của một người suốt đời không vợ con. Thế mà chỉ một trận cười của nó bỗng xua hết khí lạnh đêm khuya, xua hết cái lạnh lẽo trong cả cuộc đời đã đậu trên mái tóc Cắm thành những vết bạc ngày càng loang rộng ra. Nó ngồi xuống bên cạnh. Nó đọc:

- Cái này của ông Lý A Pù lố.

Cắm bảo:

- Xóm Nà Ngấn, biết rồi.

Anh cuộn tờ báo cẩn thận cho đến khi chỉ còn nhỏ bằng thân cây sậy khô, rồi buộc lại bằng một sợi chỉ đỏ. Chỉ đỏ là ông Lý A Pù.

- Cái này của đồng chí Ma Văn Keo.

- Biết rồi, xóm Nà Thăn đấy.

Cắm buộc một sợi chỉ xanh.

- Cái này của ông Mã Thế Sinh.

- Biết rồi, xóm Văn Thụ.

Cắm buộc một sợi chỉ vàng.

- Cái này kính gửi đồng chí Chu Quốc Viên.

Cắm bảo:

- Ở tận xóm Làng Lang đấy nhé.

Anh buộc một sợi chỉ trắng.

Anh nhét tất cả vào ống nứa, đậy nắp cẩn thận, đeo bên hông. Rồi anh đứng dậy, khoác súng lên vai:

- Cơm trong bếp, còn nóng đấy. Thịt nai trong cái chảo. Ăn rồi ngủ đi.

Anh đi ra cửa. Thằng cháu cũng đi ra theo. Đêm đã khuya lắm. Những đỉnh núi Mèo nhọn hoắt in đậm trên một bầu trời lơ thơ rất ít sao. Gà rừng gáy hoảng âm vang vào những vách núi vây tròn lấy cái thung lũng nhỏ bé này. Cắm bảo cháu lần nữa:

- Thịt nai trong cái chảo, ăn rồi ngủ đi.

Anh bước xuống thang.

Ôi, nhớ làm sao những đêm đi cách mạng ngày còn trẻ, tóc còn đen. Đồng chí Văn cũng đến vào những đêm như thế này đây, khi có vài con gà rừng gáy hoảng âm vang và trên các đỉnh núi thì sao đã mờ như sắp tắt. Đồng chí Văn bây giờ cũng viết báo Đảng đấy. Không biết trong báo kỳ này đồng chí có viết không? Xuống xóm phải ngồi nghe báo cho hết mới được. Lần nào cũng vậy, báo xuống tới nơi thì đồng bào cả xóm tập hợp vây quanh lấy Cắm.

- Đồng chí bí thư phát hành viên!

- Đồng chí bí thư phát hành viên!

Một người biết chữ đứng ra đọc báo cho mọi người cùng nghe. Cắm cũng ngồi nghe. Anh gác mũi súng lên vai như những ngày còn đi bí mật xưa kia, chăm chú nhìn vào cái mồm người đọc. Bắt đầu là: NHÂN DÂN, cơ quan Trung ương của Đảng lao động Việt Nam. Trụ sở biên tập số... Hàng Trống. Ra ngày... Xã luận... Người thanh niên đọc một đoạn rồi dừng lại. Cắm đứng lên dịch ra tiếng Mèo. Cắm dịch rành rọt từng câu từng chữ. Này, Đảng nói về việc làm mùa. Này Đảng nói việc đi học chữ. Này Đảng lại nói việc thằng Mỹ Diệm. Bà con ạ, nó vẫn giết người của mình đấy. Nó làm cái máy chém đấy! Cắm chống súng xuống đất và giọng nói của anh âm vang. Cách mạng đã xong đâu. Nó còn giết người cách mạng ở miền Nam kia mà. Cắm phải đi chứ. Cắm già rồi, tóc bạc rồi, không đi xa tới tận miền Nam được để cứu đồng bào trong đó. Cắm phải đi phát hành viên trên rẻo cao này để báo cho mọi người biết cách mạng chưa xong đâu, còn phải đi, còn phải làm nhiều, làm nhiều... Người đọc, người dịch, hết tờ báo từ đầu đến cuối rồi, Cắm lại đeo súng lên vai, chào mọi người, đi xóm khác. Trước khi đi, Cắm tới gần người đọc báo, cười, bảo:

- Còn thiếu một chỗ anh chưa đọc đấy.

- Chỗ nào?

Cắm đưa một ngón tay chỉ vào chỗ góc phía dưới của tờ báo:

- Chỗ này, nói về ông trời với cái gió ấy mà.

- À, còn thiếu thật, còn thiếu thật. Này nhé, tôi đọc nốt nhé.

Mọi người lại xúm đến.

- Tôi đọc đây: “ở miền Bắc nước ta hôm nay trời quang và nắng... Riêng vùng núi phía Bắc và Tây Bắc Bắc Bộ, trời ít mây, thỉnh thoảng có mưa nhỏ rải rác ở một vài nơi...”

Cắm lại đi một mình trong đêm. Đúng như báo Đảng nói, đêm nay trời ít mây và có gió nhẹ. Thỉnh thoảng có mưa, nhưng là mưa nhẹ như sương. Mùa xuân về trên rẻo cao đã làm nở những thứ hoa chỉ thơm ban đêm, kín đáo như nụ cười tình của một cô gái Mèo. Tiếng kêu của một con hoẵng lạc bầy trong rừng khuya nghe như tiếng gọi tha thiết của một con người. Cắm nghĩ chưa bao giờ anh nghe báo nói về tiếng kêu của con hoẵng đó. Nhưng nói làm gì, trên khắp đất nước ta, có nơi nào mà một đêm mùa xuân lại không nghe thấy tiếng kêu tha thiết của một con hoẵng con. Cắm xốc lại dây súng, nhưng không phải để bắn. Anh đi nhanh trong đêm quen thuộc. Cắm đi xóm nào trước bây giờ đây? Đi cái chỉ xanh trước thôi, xa nhất mà.

Đỉnh núi của đồng chí Ma Văn Keo mà Cắm ghi trong trí nhớ bằng một sợi chỉ xanh, chót vót đứng một mình trong mây trắng.../.

Nguyên Ngọc/Bắc Cạn 1959

Chợ phiên vùng cao


14 tháng 8 2024

Tiếng gọi của tự do

(Bài viết của nhà văn Nguyên Ngọc)

Việt Bắc bấy giờ xa cách Khu 5 ba tháng lội bộ vượt Trường Sơn. Năm 1950 mở biên giới phía bắc nối với Trung Quốc và Liên Xô, hai năm sau, hơi hướng của ngọn gió lạ (về sau hóa ra là cả một cơn bão dữ) từ Việt Bắc mới vượt Trường Sơn phả vào tới Khu 5. Chỉnh huấn, chỉnh quân, giáo dục quan điểm đấu tranh giai cấp...

Năm 1953 Khu 5 dè dặt bắt đầu giảm tô và thí điểm cải cách ruộng đất... Về sau tôi sẽ biết chỉ mới một chút dè dặt đó đã để lại biết bao nhiêu hậu quả bi thương. Còn lúc bấy giờ tôi là cậu học trò hăng say và lãng mạn mới vào bộ đội, với giấc mơ tráng sĩ học được trong sách. Và còn mối tình đầu của tôi nữa...

Nhà văn Nguyên Ngọc

Tôi vào bộ đội, được đưa lên trường lục quân Khu 5 bấy giờ đóng ở Đồng Ké, Quảng Ngãi, cũng lăn lê bò toài, nhưng chỉ ít lâu không biết do ai giới thiệu, được lệnh rút về báo Vệ quốc quân Liên khu 5, đóng ở Xuân Phổ, Nghĩa Kỳ, bên bờ sông Trà. Chiến tranh, nhưng ở đây vẫn rất thanh bình, Nghĩa Kỳ có nghề làm mía nấu đường, chúng tôi sống trong nhà dân, sáng nào cũng được bà con cho uống nước “chè hai” tức nước đường vừa chín tới chưa kịp cô đặc, và ăn khoai lang nhúng trong nước chè hai nóng hổi ngon tuyệt.

Cùng về báo với tôi còn có Ngọc Anh, tác giả Bóng cây Kơnia sau này. Cả Lê Công Thành nữa, mấy mươi năm sau sẽ trở thành một nhà điêu khắc hàng đầu của nước ta. Bên cạnh tòa soạn báo, có bộ phận văn nghệ, ở đấy có anh Dương Minh Ninh, anh Lê Trọng Nguyễn, anh Lưu Nghi Hội An ngày trước của tôi, có Phạm Thế Mỹ người sẽ trở thành một nhạc sĩ nổi tiếng ở miền Nam thời chính quyền Sài Gòn...

Những người tài hoa một thời, khi chưa có gì bộc lộ rõ rệt cả, khi tất cả đều còn tiềm tàng, tiềm ẩn, tương lai còn vô số khả năng, cuộc đời rồi sẽ đưa chúng tôi đi theo những con đường không thể ngờ, mỗi người sẽ có một số phận vậy mà hóa ra hết sức khác nhau, dắt dẫn bởi vô số căn nguyên không ai biết trước, thấy trước được dẫu hẳn ngay ngày đó đã âm thầm tích lũy mà nào có ai trong chúng tôi ngờ được. Anh chàng Trương Qua nhạt phèo chúng tôi thường gọi là “họa sĩ sạch sẽ”, bức tranh nào của anh cũng sạch bong như vừa được lau chùi, là tác giả có đến giải thưởng Hồ Chí Minh, anh Dương Minh Ninh tài hoa nhất của chúng tôi thì mãi mãi vô danh trong một thị trấn vô danh bên con đường lên Đà Lạt, lầm lũi đi dạy nhạc cho những đứa trẻ ở đấy để kiếm miếng ăn qua ngày...

Còn tôi ngày ấy là ai? Là ai cái cậu bé mới rời ghế nhà trường, say sưa hát “Xếp bút nghiên”, hăm hở đi vào chiến tranh như đi vào ngày hội, trong đầu vẫn âm âm tiếng hát “Mưa rơi trên sân, mái nhà nghiêng dần...” của người con gái đứng trước tấm màn xanh một màu xanh kỳ lạ, xanh đến vĩnh cữu, màu xanh của tình yêu, của tình đầu. Trong đầu cậu con trai ấy lời hát “Xếp bút nghiên lên đường tranh đấu, xếp bút nghiên coi thường công danh...” với “mái nhà nghiêng dần, ôi buồn trời mưa...” hoàn toàn hòa làm một, chẳng hề đối chọi nhau, chẳng chút lấn cấn nào cả.

Chắc cũng như Quang Dũng, “Tây tiến đoàn binh không mọc tóc” với “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” hoàn toàn là một. Chúng tôi ngày ấy là vậy đó, giấc mơ tráng sĩ và tâm hồn học trò, trong mỗi chúng tôi là cả hai. Để tôi nói luôn điều này: một trong những trận đánh đầu tiên của tôi là trận đánh đồn Kỳ Lam bên bờ sông Thu Bồn. Đêm ấy tôi đi với bộ phận đánh khu hành chính đóng ở ga Kỳ Lam. Đánh suốt ba tiếng đồng hồ, diệt gần hết các mục tiêu rồi, nhưng còn một khẩu đại liên địch bắn bao nhiêu phát DKZ vẫn không sao bắt nó câm họng được.

Tôi nằm ở hàng đầu, cạnh một người lính trong đêm không sao trông rõ mặt. Đạn đại liên bắn rát, đến sém cả tóc. Tôi nằm úp mặt xuống đất mà chịu đựng. Bỗng người lính nằm bên cạnh tôi nắm cả đầu tóc tôi kéo ngược lên và mắng: “Có chết cũng ngẩng đầu lên mà chết, sao lại cúi gầm mặt xuống đất thế!”. Tôi không nhìn rõ mặt người lính ấy, mãi mãi không biết tên anh, cũng không biết là anh còn hay mất. Nhưng đấy là bài học chiến đấu, và bài học làm người đầu tiên của tôi. Suốt đời tôi sẽ nghe vọng mãi lời mắng: “Ngẩng đầu lên! Có chết cũng ngẩng đầu lên mà chết!”...

Tôi đi vào đời như vậy đó, lãng mạn và hiện thực, mềm yếu và rắn rỏi, những vô tư còn chưa tan và những suy tư nghiêm khắc đầu tiên cuộc chiến dạy cho.

Tôi về tòa soạn báo Vệ quốc quân Khu 5, viết những mẩu tin đầu tiên cho báo, thỉnh thoảng tập tò viết đôi cái chẳng ra tường thuật cũng chẳng ra bút ký. Đi tham gia một số chiến dịch, ở Sơn Hà miền tây Quảng Ngãi, ở Điện Bàn - Quảng Nam. Thư ký tòa soạn (đúng ra là chủ nhiệm báo) là anh Trương Khả Liệu (về sau do hoàn cảnh gia đình anh ra khỏi bộ đội, và không đi tập kết. Anh ở lại Sài Gòn, trở thành một nhà thơ ít nhiều có tên tuổi) hỏi tôi muốn làm gì nữa. Tôi trả lời ngay: Xin đi xuống đơn vị chiến đấu, làm phóng viên cũng được, nhưng phải ở đơn vị chiến đấu. Và lên chiến trường Tây Nguyên. Ngọc Anh cũng vậy, hai đứa nằng nặc đòi đi. Và được chấp nhận ngay.

Tại sao lại là Tây Nguyên, nhất thiết Tây Nguyên?

* * *

Trong tủ sách gia đình của ba tôi ngày trước ở Hội An, không có Lan Khai. Tác giả này bị ba tôi liệt vào loại sản xuất hàng chợ. Nhưng tôi có lén đọc được ở nhà anh Châu Tường Anh. Hình như có một số tiểu thuyết tình ái gì đó, nhưng tôi chỉ nhớ những cuốn gọi là “Truyện đường rừng” của ông. Ông viết về những người Mèo trên vùng cao Hà Giang. Hóa ra sau này đấy sẽ là một vùng đất rất quen thuộc, cả thân thiết nữa của tôi, những Đồng Văn, Mèo Vặc, Lũng Cú, Xà Phình, Lũng Phìn, Quản Bạ, Yên Minh. Thậm chí ở đó tôi đã biết một người con gái không thể quên, một người đàn bà Mèo có số phận lạ lùng, mà tôi cũng có phần gắn bó trong số phận và sự lạ lùng đó. Lên vùng cao Hà Giang, tôi biết Lan Khai, bấy giờ sống ở Tuyên Quang, có lên xa lắm cũng chỉ đến thị xã Hà Giang.

Truyện đường rừng của ông viết về người Mèo vùng cao biên giới là do ông nghe ai đó nói lại, người nói lại ấy thì nghe một người khác nói lại... cứ thế chắc qua hàng chục trung gian, cũng có nghĩa là qua hàng chục lần tưởng tượng, hư cấu, sáng tạo. Và ông nhà văn ngồi ở Tuyên Quang, là vùng đất của người Tày, lại dùng cái đầu óc càng giàu tưởng tượng của ông mà thêu dệt thêm ra và viết cho khách Hà Nội, cho cả lũ độc giả vừa lớn lên chúng tôi vồ vập ngốn ngấu. Mà người Mèo là một loại người rất đặc biệt, có gì đó gần với người di gan ở châu Âu, chỉ riêng hình ảnh của họ qua vài lần thoáng nhìn thấy thôi, cũng đủ để cho một người bình thường tha hồ hình dung ra bao nhiêu “truyền thuyết” ly kỳ, huống nữa là nhà văn.

Sau này tôi có đọc được một cuốn sách của một linh mục tên là Savina, cuốn Lịch sử người Miêu (Histoire des Miao của François Marie Savina). Lần theo những con đường của ngôn ngữ học, Savina cho rằng người Miêu, tức người Mèo hay người Mông, vốn có quê gốc lâu đời ở miền đất nằm giữa Lưỡng hà và biển Aral, có tiếng nói gần với tiếng... Phần Lan. Về sau các dân tộc ly tán, người Miêu có một cuộc di cư dài và kỳ lạ, lên tận vòng tròn Bắc cực. Chính vì thế mà trong các truyền thuyết của người Mèo có chuyện đêm dài sáu tháng, ngày dài sáu tháng. Từ Bắc cực họ lại đi dần xuống vùng sông Dương Tử, chiếm miền Trung Nguyên của lục địa Trung Hoa trước khi người Hán đến. Sau đó bị người Hán tràn phía tây sang đánh đuổi, phải chạy dần về phương nam. Khi người Miêu đi về nam, thì các tộc người khác đã chiếm hết các đồng bằng trên lục địa rộng lớn này, nên con đường di cư của họ toàn phải đi trên các đỉnh núi chót vót.

Cao nguyên đá Đồng Văn

Có lẽ đấy là một cuộc đi kỳ lạ nhất trong lịch sử loài người, chuyển từ đỉnh núi này sang đỉnh núi khác, phiêu bạt suốt mấy nghìn năm trên hàng vạn hay hàng triệu cây số, biến họ thành một tộc người chuyên sống trên độ cao chót vót, chỉ có thể sống trên cao chót vót, quen với áp lực của không khí loãng, với những ngọn núi tai mèo lởm chởm cực kỳ cằn cỗi mà họ khai thác tài tình không ai bằng, và chính họ đã tìm ra và là chuyên gia hạng nhất của loại cây sinh lợi nhiều nhất, quyến rũ nhất trên đời: cây thuốc phiện. Savina đã viết những trang say mê hết lời ca ngợi người Mèo.

Mấy nghìn năm trôi dạt giữa hàng chục, hàng trăm dân tộc khác biệt và thù địch, không tổ quốc, không quê hương cố định, vậy mà ý thức gắn bó dân tộc, ý thức về một quốc gia, một quốc gia thường xuyên lưu động lại hết sức sâu đậm, giữ nguyên được ngôn ngữ và bản sắc độc đáo của mình, hầu như không hề suy suyển, pha tạp. Trên đường đi về nam, họ vào Việt Nam ở đỉnh Lũng Cú, chiếm vùng cao nguyên đá kỳ dị Đồng Văn, Mèo Vặc, tràn tiếp sang Lào Cai, Sơn La, Lai Châu, rồi bắc Lào, Thái Lan, Miến Điện...

Người Mèo mạnh mẽ, đằm thắm, trữ tình, mê đắm, mà cũng có thể hung dữ; đàn ông Mèo với khẩu súng kíp tự chế dài ngoẳng là những người chiến binh hầu như không thể đánh bại; đàn bà Mèo cần cù, khéo léo, chịu thương chịu khó, mà cũng lãng mạn, tự do, quyến rũ nhất thế gian... Savina viết: “... sự tồn tại của dân tộc có quá khứ năm nghìn năm này thật sự là một sự kiện lịch sử; việc họ giữ nguyên được ngôn ngữ của mình, không cần có trợ giúp của bất cứ thứ chữ viết nào, bên cạnh những sự ngôn ngữ khác, nhất là ngôn ngữ Trung Hoa có từ năm mươi thế kỷ là một hiện tượng ngôn ngữ học có thể duy nhất trên thế giới...

Dân tộc kỳ lạ chưa hề bao giờ biết đến một tổ quốc cố định này, cũng chưa hề biết đến nô lệ. Độc lập là dấu hiệu khác biệt của người Mèo mọi thời... Một người Mèo già nói: “Chúng tôi biết danh tiếng người ta gán cho chúng tôi. Chúng tôi bị coi là một dân tộc hiếu chiến, tàn ác, là kẻ thù của mọi người. Nếu anh muốn biết sự thật về dân tộc chúng tôi, hãy đi mà hỏi con gấu bị thương vì sao nó chống cự, con chó bị người ta đánh vì sao nó gào thét, con nai bị săn đuổi vì sao nó chạy từ núi này sang núi khác... Dân tộc này, độc lập một cách hung dữ, thà chết và lưu vong chứ không chịu làm nô lệ...”.

Giá ngày ấy Lan Khai đọc được đôi chút Savina thì tiểu thuyết đường rừng về người Mèo của ông còn có thể huyền hoặc hơn nhiều. Nhưng những truyện bịa khá ngờ nghệch của ông ngày nay đọc lại cũng đủ để đánh thức trong tôi một “ẩn ức” tiềm thức: khao khát tự do, không hiểu sao lại đồng nghĩa với núi rừng mơ hồ và xa xôi, với những “rẻo cao”, những bí ẩn rừng rú vừa đáng sợ vừa đẹp, đẹp chính vì đáng sợ, như là tiếng gọi của tự do ấy...

Nguyên Ngọc

(Bài đăng trên tạp chí điện tử Người Đô Thị năm 2016)

Em bé HMong ở dốc Thẩm Mã

04 tháng 8 2024

MÙA HOA THUỐC PHIỆN CUỐI CÙNG

Tác giả: Nguyên Ngọc

Anh Ngọc ạ, đây là mùa hoa thuốc phiện cuối cùng của vùng tôi đấy. Đến hè sang năm thì chỗ này đã trắng cờ ngô rồi!

Tôi đi cùng chị Vàng Thị Mỹ, chủ tịch xã Miêu Cao, một buổi sáng ở biên giới. Chị Mỹ là một thiếu phụ Mèo, tuổi có lẽ khoảng 27, 28, người nở nang và gọn. Chị không cạo tóc như những phụ nữ Mèo tôi thường tiếp xúc; mặt chị đúng hình trái xoan, đôi mắt màu nâu rất ướt, sắc nhưng vẫn dịu dàng.Hai hàng lông mày nhẹ phơn phớt bay lên như đôi cánh chim. Chị đi rất nhanh, khi xuống dốc cũng như khi lên dốc, tôi cố lắm mới theo kịp. Đôi bắp chân chị hôm nay không quấn xà cạp, khỏe quá, cứ lướt phăng phăng. Đã nhiều lần chúng tôi vượt cả những đoàn ngựa thồ chở hàng mậu dịch lên rẻo cao, những đoàn ngựa đặc biệt là Hà Giang, lúc nào cũng trầm mặc và quy củ; tiếng nhạc ngựa rộn rã sau lưng chúng tôi xa dần trong sương cho đến khi chỉ còn là một thứ âm vang như vọng từ một chuyện cổ tích Mèo trở về.

Lên khỏi dốc Phó Lương, chị Mỹ dừng lại. Chị đưa tay chỉ cho tôi một cánh nương lởm chởm đá tai mèo ở lưng chừng sườn núi còn vướng đầy sương. Chị nói, tôi ngạc nhiên nghe giọng chị như có hơi run run:

– Anh Ngọc trông kìa, thế mà hoa thuốc phiện đã nở rồi!

Hoa thuốc phiện đã nở rồi thật. Các bạn đã thấy hoa thuốc phiện nở trên những nương đá bao giờ chưa? Thật là đẹp! Thoạt đầu là một đóa trắng, trong sáng và trinh bạch, nở một mình giữa đám thuốc phiện còn xanh. Rồi lốm đốm những hoa trắng nở đây đó; rồi thì đột ngột, bừng nở một bông hoa tím quyến rũ, lẳng lơ và yếu đuối lạ lùng. Cần đài hoa màu tím sẫm lại như ướt. Gió thổi bạt cánh hoa mong manh. Trời ấm lên một chút. Thế là mùa hè đã bắt đầu! Tôi bảo:

– Ờ, mà hoa thuốc phiện nở rồi nhỉ, nhanh thật!

Tôi bỗng thấy đôi mắt chị Mỹ long lanh. Chị lại nói với tôi, vẫn giọng run run ấy – người nữ cán bộ Mèo đó vẫn thế, chị nói chuyện với ta nhưng ta vẫn tưởng như chị đang tự trả lời những suy nghĩ nào đó dồn lên trong lòng chị. Chị bảo:

– Anh Ngọc ạ, đây là mùa hoa thuốc phiện cuối cùng của vùng tôi đấy. Đến hè sang năm thì chỗ này đã trắng cờ ngô rồi!

Chúng tôi lại đi. Bây giờ chị càng đi nhanh hơn, hai bắp chân như hai con chim, ức rất trắng nhảy nhảy trong cỏ sương dày của đường núi. Hai bên đường lác đác đã có những hoa thuốc phiện màu tím nhạt, màu hồng, màu đỏ thắm, màu vàng, và màu gì đó nữa, gần như là xanh. Chị Mỹ lại nói, tôi không nhận ra được tiếng nói của chị nữa vì giọng nói bỗng có chen rất nhiều những tiếng vui phấp phới, nhảy nhót, và lời nói thì hoạt bát, trau chuốt hẳn đi:

– Anh Ngọc ơi, này, thế là từ nay phụ nữ Mèo chúng tôi không làm nô lệ cho nó nữa đấy, anh Ngọc ạ. Anh mới lên trên này, anh ạ, anh chưa rõ đấy, đời người con gái Mèo ấy mà, như là chôn dưới gốc cây thuốc phiện. Tôi ghét hoa thuốc phiện từ bé. Mỗi lần hoa thuốc phiện nở là đời người con gái Mèo chúng tôi tan nát thêm một lần, anh Ngọc ơ!…

Thế rồi, rất đột ngột và từ nhiên, chị cất tiếng hát. Tôi mới học lắp bắp đôi tiếng Mèo, chỉ nghe được bài hát láy đi láy lại mãi một câu:

“Tu tè chi dù ừ mưng! Tu tè chí dù ừ mưng!” (HỠI ANH THANH NIÊN MÈO ƠI!)

Nhưng rõ ràng tiếng hát không đựng hết một nỗi thèm khát trời xanh và sự sống xao xuyến lạ lùng. Tôi thật lấy làm lạ. Mới tối hôm qua chị cán bộ Mèo ấy còn nói với tôi những câu tiếng Kinh vụng về làm cả cơ quan huyện ai cũng cười bò ra: “Anh ơi, tôi ngủ không có màn, con muỗi nó ăn tôi rồi!”. Thế mà bây giờ…

Tôi bỗng sực hiểu ra rằng tôi đang đi với một người con gái có rất nhiều tâm sự chất chứa trong lòng. Đến lúc chị ngừng hát, tôi bảo:

– Chị Mỹ ơi, chị kể cho tôi nghe về cây thuốc phiện đi, cây thuốc phiện với người con gái Mèo ấy mà!

 

Một nhan sắc của núi rừng: Thào Mỹ ngày xưa

…Từ đó đến chiều tối, tôi không còn nhớ là chúng tôi đã vượt qua mấy cái dốc đá rất cao của dãy núi Tây Côn Lĩnh. Chị Mỹ đi rất khỏe, những lúc lên dốc ngược chị vẫn không chậm chân chút nào, câu chuyện không hề bị ngắt quãng, chỉ có chen nhịp thở hơi dồn dập mà vẫn kín đáo của người phụ nữ…

Hôm ấy là một phiên chợ Mèo. Chợ Miêu Cao như một bàn tay, nằm trong lòng một thung lũng hẹp và sâu chẳng khác gì một cái giếng. Từ tảng sáng, trên các sườn núi, người ta đã đổ xuống chợ từng dòng. Trong sương, nghe thấy tiếng nhạc ngựa loong coong, tiếng cười ríu rít, tiếng nói ồ ồ của những thanh niên Mèo, tiếng khèn dập dìu. Loáng thoáng những váy trắng, những ô hoa. Người ta đổ xuống chợ, đổ xuống chợ, như là sau một cơn mưa lớn nước không biết ở đâu ra mà nhiều thế dồn dập chảy về một chỗ trũng. Người ta đi chợ để bán đôi thứ lặt vặt: một củi tấu rau cải, vài đấu đỗ răng ngựa, một chõ xôi vàng rực gói lá dong, vài cân hoàng tinh, một ít củ từ…

Người đi bán rất ít, người đi chợ để chẳng bán gì cả lại nhiều hơn gấp bội. Cũng chẳng để mua gì cả. Người ta đi chợ để chơi, thế thôi! Đối với người Mèo, chợ là ngày hội.

Vàng Mi Xử, ông già ấy hôm nay cũng đi chợ, để chơi. Cũng như tất cả những người Mèo nghèo khổ, Vàng Mi Xử chọn đỉnh núi cao nhất để làm nhà, từ sau khi mảnh ruộng độc nhất của ông mất vào tay bọn chúa đất. Núi cao đến nỗi những ngày quang đãng nhất nhà ông cũng vẫn ở trong mây dày. Chung quanh nhà suốt năm chỉ có sự im lặng lạnh lùng của những dãy núi mênh mông. Mỗi lần ông nói, chỉ có những vách núi đá sừng sững ấy nghe ông nói, chúng trả lời ông bằng những tiếng âm vang ồ ồ nghe chẳng ra tiếng gì cả. Rồi thì lại im lặng. Những lúc buồn quá, ông nói chuyện với đứa con gái của ông, người thân thuộc độc nhất của ông còn lại ở đời. Năm nay nó lên mười một. Mắt nâu và ướt, cũng như mắt mẹ nó ngày trước, nó cũng ít nói, nó chưa được đi ra khỏi mấy cái vách núi đá vây quanh cuộc đời nhỏ hẹp của nó kia bao giờ. Ông già Xử rất buồn, ông sống im lặng, cô độc như một con thú…

Nhưng ông già vẫn thèm khát con người. Ông vẫn thèm khát được gặp con người, đông người, nhiều người, được nói với họ, hát với họ, cãi nhau với họ, say rượu với họ, đánh nhau với họ nữa cũng được, miễn là trong vài giờ đồng hồ, ông thoát được sự im lặng bằng đá sừng sững quanh năm này. Ông cặm cụi làm, đứa con gái của ông cũng cặm cụi làm. Hai cha con moi từng hốc đá cằn cỗi, cắm xuống đấy một cây bắp, một cây tam giác mạch, một cây bo bo. Năm nay, lần đầu tiên ông già Xử cắm thêm vào đấy một cây thuốc phiện. Bắp, tam giác mạch, bo bo thì để cho hai cha con ăn. Còn thuốc phiện, thuốc phiện thì là mơ ước của ông. Ông sẽ đem bán, đó là vàng đen, ông sẽ có tiền, ông sẽ tậu lại miếng ruộng đã mất dưới thung lũng kia. Cha con ông sẽ trở về dưới ấy, sẽ thoát khỏi cái im lặng cô độc bốn bề trên đỉnh núi cao này. Nửa đêm sương muối xuống dày như tuyết, ông già Xử trở dậy, đi ra nương. Ông phủi sương cho từng cây thuốc phiện non như những cây cải cúc hiền lành. Ông thức suốt đêm, vuốt ve từng gốc thuốc phiện, vuốt ve những ước mơ đẹp đẽ nhất của ông… Đến khi trời ấm lên một chút, trên nương đá lởm chởm của hai cha con bừng nở đóa hoa thuốc phiện trắng đầu tiên thì đứa con gái mười một tuổi thấy trong đôi mắt đục và giận dữ của cha nó một cái cười đầy hy vọng. Ông già vuốt tóc nó, nói với nó giọng ồ ồ:

– Năm nay ma quỷ giúp đỡ, may ra có thể đi chợ được, con ạ. Cha cho con đi chợ với cha nhé!

– Đi chợ à, là đi đâu, hở cha?

– Là đi đến chỗ đông người, hà hà, ồn ào lắm, vui lắm con ạ. Không im lặng như ở đây đâu…

Hôm nay ông già Xử đi chợ. Thỏi thuốc phiện giấu kín trong lưng quần. Ông đi tay không, áo rách bươm, đầu tóc hung hung đỏ của ông lờm xờm. Đứa con gái chạy theo sau, gấu váy của nó đã ướt đẫm sương. Chân nó ríu lên, nó hỏi:

– Cha ơi, chợ đây à?

Nó chỉ những hàng cây chằng chịt ở chân trời mà lần đầu tiên nó thấy. Cha nó cười:

– Không phải đâu, đấy là cây. Chợ là người kia! Hiểu chưa?

– Là người à!

Nó vẫn chưa hiểu…

Bây giờ thì nó hiểu rồi. Chợ nghĩa là người, người chen chúc nhau và cười nói, cãi nhau, đánh nhau, say rượu, là những con ngựa đực buộc ở mấy gốc cây gạo đánh hơi cái hý lên lanh lảnh, đá chân sau lia lịa lên trời; là tiếng khèn dìu dặt ôm lấy tất cả cái đám đông hỗn loạn ấy, là những cặp trai gái nữa, họ uống rượu với nhau, hát với nhau, rồi họ dẫn nhau đi đâu đấy, vào những hốc núi trong xa kia… Cha nó cũng chen vào giữa đám người đông như kiến, nó nắm chặt gấu áo cha, cố chen theo. Nó thấy cha nó nói thì thầm gì với một người nào đó. Người ấy lắc đầu quày quảy rồi quay đi. Một lát sau cha nó lại nói thì thầm với một người khác, người này có râu quai nón cạo rất nhẵn, và chỉ có độc một con mắt long lanh. Cha nó lấy gói gì giấu ở trong lưng quần, dúi vào tay người kia.

Người kia hỏi:

– Bao nhiêu?

– Mười đồng.

– Hứ hừ, năm thôi.

– Bảy vậy.

– Thêm một đồng cũng không.

Cha nó lắc đầu:

– Thế thì không được.

Ông lại nhét cái gói vào lưng quần. Người kia bỏ đi. Cha nó cũng bỏ đi. Bỗng người kia quay lại, con mắt độc nhất của hắn long lanh lên, hắn nắm tay ông cụ:

– Uống rượu đi! Hà hà! Uống rượu đã!

Cha nó bảo:

– Nhưng tao không có tiền!

– Cần gì, tao đãi, hà hà!

Nó đứng bên cạnh cha nó suốt từ trưa đến chiều, cho tới khi ông cụ say mềm, nằm vật ra giữa hàng rượu đã tàn. Chợ đã vãn. Nó khóc. Không ai dỗ. Nó khóc cho đến khi trời tối mịt. Sương đêm xuống, ướt đầm mái tóc ngắn của nó. Cha nó tỉnh lại, nó dìu cha nó về…

Đường núi đêm trăng heo hút, không một bóng người. Nó không hiểu gì cả về những việc đã xảy ra trong ngày hôm nay, ngày đầu tiên nó gặp người. Nó chỉ thấy một cái gì như là một sự tủi cực không cùng mà nó không giải nghĩa được, không nói ra được, tràn ngập tấm lòng nhỏ bé của nó. Có cái gì chưa thành hình đã vỡ đi, nó khóc, cha nó cũng sụt sịt khóc, không biết vì sao…

Bỗng, từ hốc đá bên đường bước ra một người. Dưới ánh trăng, nó nhận ngay ra đó là người có râu quai nón cạo nhẵn thín ở chợ lúc sáng. Người ấy to lớn, dạng chân đứng choán cả đường đi, ngửa một bàn tay rộng và lởm chởm những u những cục ra trước mặt cha nó, con mắt độc nhất cười hiểm độc:

– Đưa đây!

Cha nó tỉnh rượu hẳn rồi. Ông cụ nói:

– Bảy đồng, thiếu một xu cũng không được.

Tiếng cười của người kia rung chuyển cả sự im lặng của núi đá bốn bề:

– Bây giờ thì một xu cũng đừng hòng. Đưa đây!

Ông cụ chợt hiểu ra rồi. Mắt ông cụ long lên, đỏ như hai hòn máu, đó là cặp mắt của một con thú dữ bị lấn vào thế cùng. Ông cụ thét lớn:

– Tao vất vả một năm trời nay, mày muốn cướp của tao à, thằng chó chết!

Đứa bé chỉ kịp thấy cha nó chồm tới, nhưng người kia đã hoa lên một mũi súng kíp sáng loáng. Tiếng nổ xé rách bóng đêm biên giới…

Thế rồi nó chạy, nó chạy lạc trong rừng đá mênh mông, rừng đá tai mèo lởm chởm vô tận, nó chạy đi trốn người, nó gọi: “Cha ơi! Cha ơi!”, và những vách đá sừng sững kia trả lời nó bằng những tiếng vang ồm oàm nghe không ra tiếng gì cả…

…Chị Mỹ vẫn đi nhanh nhưng tiếng nói của chị bỗng nghẹn tắt đi. Tôi đi sau nên mãi đến lúc chị lại cất tiếng nói tôi mới biết rằng giọng nói của chị đá ướt đầm nước mắt giàn giụa. Chị hỏi:

– Anh Ngọc có biết tên con bé ấy không?

Tôi im lặng một lát rồi trả lời:

– Tôi biết rồi, chị Mỹ ạ… Có đến mười bảy, mười tám năm rồi ấy nhỉ?

Chị nói, vẫn nghẹn ngào:

– Đó là mùa hoa thuốc phiện đầu tiên trong đời tôi. Còn bây giờ thì là mùa hoa thuốc phiện cuối cùng.

Chúng tôi lại im lặng rất lâu. Bước chân chị Mỹ vẫn thoăn thoắt trên đường đá lởm chởm. Sương đã tan hết. Hai bên đường những hoa thuốc phiện diêm dúa đủ màu nở rực trong mùa thuốc phiện cuối cùng trên mảnh đất này. Năm nay, thuốc tốt quá, có lẽ cũng tốt như mùa thuốc 18 năm về trước, ngày cô bé Mỹ bắt đầu tiếp xúc với cuộc đời và mất cha… Chị Mỹ lại kể tiếp, giọng đã bình tĩnh trở lại, nhưng không còn thanh thoát như lúc đầu, bây giờ nó đằm xuống hơn, nặng hơn…

Một bà cụ già góa bụa đem Mỹ về nuôi. Được hai năm, Mỹ vừa đúng mười ba tuổi, bà cụ gả chồng cho Mỹ. Chồng Mỹ là một cậu bé bảy tuổi, con tên chúa đất ở bên kia sườn núi. Ngày đi về nhà chồng, Mỹ khóc nhiều lắm, Mỹ khóc vì từ nay Mỹ đã mất sự cô độc giữa bốn vách núi đá kia rồi. Mỹ lại phải đi đến với người, cái loài thú dữ mà Mỹ đã biết ở chợ năm kia. Mỹ ôm lấy gấu váy bà cụ mà khóc, bà cụ đẩy Mỹ ra, rồi người ta trói Mỹ lại, khiêng đi. Ít lâu sau, bà cụ ấy cũng bị chết, trên đường từ chợ về nhà, trong mùa thuốc phiện…

Hoa thuốc phiện lại nở xanh đỏ tím vàng trên những sườn núi Mèo lởm chởm. Cánh hoa mong manh của nó có sức quyến rũ lạ lùng. Năm này qua năm khác, những người Mèo cùng khổ lại phá nương bắp của mình đi, cắm thay vào đấy những cây thuốc phiện đầy ước mơ. Đêm đêm sương muối sa trắng như tuyết, những bàn tay cằn cỗi vuốt ve từng lá thuốc như vuốt ve những ước mơ đẹp đẽ nhất. Thuốc phiện, thuốc phiện, vàng đen của người Mèo, sẽ giúp họ thoát khỏi cảnh khốn cùng. Đối với họ không còn con đường nào khác nữa. Họ thức thâu đêm biên giới dài, họ liều chết chống lại thú rừng, họ giữ nương thuốc phiện ra hoa, quả thuốc phiện xanh mọng căng tròn nhựa thơm, rồi những đêm nấu thuốc trong rừng sâu, những ngày náo nức đi chợ, và xác họ lại rải đầy những con đường núi quanh co, hiểm trở…

Bây giờ thì cô bé Mỹ đã hiểu những mơ ước của cha ngày trước. Nhưng còn thuốc phiện ấy đi đâu? Mỹ không tài nào hiểu được…

Đêm vẫn còn dày trên núi non trùng điệp. Mây bay rất thấp, đến nỗi Mỹ nghe có cả hơi ướt của nó phả lạnh vào mặt. Mỹ ngồi ở một góc nhà chồng, một căn nhà ngói có tường cao vây kín bốn bên, Mỹ nghe tiếng cối nước giã gạo ngoài vườn lâu lâu lại đổ xóa xuống rồi tiếng chày đập vào cối gạo khô khan. Mỹ ngồi dậy, Mỹ không ngủ, Mỹ đếm tiếng chày buồn tẻ. Đêm nào cũng thế, dỗ chồng ngủ xong, Mỹ lại lén ra đấy ngồi một mình, Mỹ suy nghĩ…

Bỗng con chó trước cổng gầm gừ. Một tiếng huýt sáo thoang thoảng, một bóng người từ ngoài đi vào, dừng lại một lát ở trước cửa nhà. Bố chồng Mỹ mở cửa. Bóng người ấy in lên khung cửa, rất cao lớn. Mỹ rùng mình, Mỹ nhận ra rồi: người có râu quai nón, một mắt.

Cánh cửa khép lại. Mỹ lén đến khe cửa, nhòm vào. Dưới ánh đèn le lói, bố chồng Mỹ ngồi giữa, năm sáu người xúm lại chung quanh, cả người một mắt. Từng người lần lượt móc túi áo, lấy ra những thỏi thuốc phiện, đặt lên bàn tay béo múp của bố chồng Mỹ. Bọn chúng bỗng cãi nhau những gì đấy, ầm lên một lúc, nhưng khi bố chồng Mỹ thét lớn: “Im” và đập mạnh tay xuống bàn thì tất cả im lặng. Mắt chúng xanh đi vì sợ…

Mỹ đứng sững ở ngưỡng cửa. Mỹ hiểu ra rồi: thuốc phiện, niềm mơ ước vuốt ve những đêm trắng toát sương muối của những người dân Mèo nghèo khổ, thuốc phiện đẫm máu ấy chạy về đâu, Mỹ đã hiểu ra rồi.

Trong nhà đã tắt đèn. Bọn chúng ngủ hết rồi. Mỹ vẫn đứng ở đấy, bóng đêm biên giới đầy bí mật và hăm dọa bao trùm lấy cô gái Mèo nhỏ bé. Nhưng Mỹ không thể quay vào nhà được nữa. Mỹ muốn trở về, trở về căn nhà cô độc, im lặng quanh năm trong mây dày trên đỉnh núi. Mỹ bước đi, Mỹ đã ra đến ngõ, con chó gầm gừ rồi im lặng nhận ra người quen, mây bay thấp quá thổi một luồng lạnh lên đôi vai nhỏ bé của Mỹ. Mỹ ù té chạy vào trong đêm tối mờ mịt, không biết đâu là đường. Mỹ chạy như có người, như có thú dữ đuổi theo sau. Đá tai mèo xé rách tả tơi gấu váy, những cành cây dại đầy gai rạch ngang, rạch dọc trên mắt. Mỹ chạy đi, chạy đi, không biết về đâu, không biết tới đâu. Cuộc đời không còn chỗ sống được cho cô gái Mèo mười ba tuổi ấy nữa rồi!

Mặt chị Mỹ lại đầm đìa nước mắt. Nhưng lần này chị không giấu, chị bảo tôi:

– Anh cho em mượn cái khăn tay.

Lau nước mắt rồi, chị cười:

– Đáng lẽ em chết lần đó rồi đấy, anh Ngọc ạ. Anh nghĩ, em chạy trong núi ba ngày, vừa chạy vừa khóc, đói thì có thể đào củ rừng mà ăn, khát đã có nước suối đấy, nhưng em chả thiết ăn uống gì cả. Cứ chạy như thế, hễ thoáng thấy làng, thấy người là lánh đi ngay. Cho đến buổi tối ngày thứ ba…

…Mệt lả, Mỹ dừng lại trước cửa một hang đá, Mỹ định ngồi sụp xuống đấy, ngã xuống đấy rồi chết lả đi. Nhưng vừa lúc đó, Mỹ nghe thấy trong hang có tiếng động. Mỹ đứng thẳng dậy: người! Lại gặp người rồi! Mỹ vùng chạy, nhưng đôi chân bé nhỏ không bước được nữa. Mỹ quỵ xuống ở cửa hang…

Khi tỉnh dậy, vẫn còn là đêm, Mỹ thấy mình nằm trên vai một người to lớn. Anh ta cõng Mỹ đi một mình trong núi, một tay anh đỡ lưng Mỹ, một tay anh cầm một khẩu súng dài. Mỹ vùng ra, nhưng không còn chút sức lực nào. Khi người to lớn ấy đặt Mỹ xuống đất thì Mỹ đã lại ngất đi…

Mỹ tỉnh lại lần thứ hai trong một hang đá. Vây chung quanh em, có rất đông người, toàn là những người đeo súng, họ ngồi hơ tay lên một đống lửa cháy bập bùng. Người to lớn ấy cúi xuống nói tiếng Mèo lơ lớ:

– Tỉnh rồi à, em? Ăn cháo nhé!

Mỹ nhìn vào mặt người đó. Có lẽ anh ta không phải người Mèo, khuôn mặt chữ điền xương xẩu, hai gò má bạnh ra, đôi mắt lá răm rất hiền, mũi hếch lên trông rất lạ…

Chị Mỹ quay lại hỏi tôi:

– Đố anh Ngọc, ai đấy?

Bị hỏi đột ngột, tôi bảo:

– Tôi biết thế nào được.

– Sao lại không biết, gặp mãi rồi mà.

– A… Thế ra… đồng chí Tiến Quân à?

– Còn ai nữa!

– Thế ra chị lại chạy đúng vào vùng hoạt động của đội quân đồng chí Tiến Quân lúc đó!

– May quá, không thì bây giờ em đã thành ma rồi…

Bước chân chị Mỹ lại thoăn thoắt như nhảy trên đường. Chị bỗng im lặng, không nói gì nữa. Chờ lâu quá, tôi hỏi:

– Rồi sau thế nào nữa, chị Mỹ?

Chị quay lại phía tôi, đôi mắt rất nâu, như ngạc nhiên:

– Còn sao nữa! Từ đấy em không biết sợ người nữa. Em biết quý người, em làm liên lạc cho các anh ấy.

– Khoảng năm 45 ấy nhỉ?

– Em không nhớ năm đâu, anh tính xem.

Trong khi tôi đang lẩm nhẩm tính thì bỗng chị Mỹ dừng lại:

– Đến kia rồi!

Trước mặt chúng tôi là một thung lũng sâu và hẹp như một cái giếng, dưới lòng thung lũng một xóm nhỏ như bàn tay, xúm xít hai mươi nóc nhà: chợ Miêu Cao. Tôi đứng sững lại vì cảm động. Đây rồi sao? Cái chợ con mà chị Mỹ đã theo bố đi đến lần đầu trong đời, ở đấy lần đầu chị biết con người trong xã hội ngày ấy đối với con người chỉ là thú dữ, ở đấy chị đã mất cha. Mười mấy năm qua, cô gái tội nghiệp ngày ấy nay đã trở thành chủ tịch xã Miêu Cao rộng và phức tạp, có trên tám nghìn dân này. Chị Mỹ cũng nghẹn ngào. Từ đấy cho đến khi xuống tới chợ, chúng tôi không nói với nhau câu nào nữa…

Tối hôm ấy chúng tôi nghỉ lại ở trụ sở ủy ban xã. Sẩm tối, đồng chí Lô Vàng, phó chủ tịch xã, một đồng chí bộ đội phục viên còn trẻ lắm, vai đeo súng, đầu đội mũ nồi tím than, đến tìm chị Mỹ:

– A, đồng chí Mỹ đã về rồi! Chờ nóng ruột lắm đấy nhé. Này, đồng chí Mỹ nè, chốc nữa tập trung nhân dân ở đây đấy, tiết mục thứ nhất đả thông một lần nữa về việc bỏ trồng thuốc phiện ấy mà, tiết mục thứ hai là bàn kế hoạch trông thay ngô và thầu dầu chứ.

Chị Mỹ hỏi tôi:

– Anh góp ý kiến cho em với, vấn đề thuốc phiện học nhiều lần rồi, nhân dân căn bản cũng đồng ý cả rồi, bây giờ nói thế nào nữa?

Tôi bảo:

– Chị cứ kể chuyện ngày hôm nay chị kể cho tôi nghe ấy, kết quả nhất đấy…

Đêm đó chị Mỹ lại kể cuộc đời của chị. Tôi ngồi trong một góc tối, nhìn những khuôn mặt người Mèo chăm chú nghe chị nói, rồi tôi nhìn chị. Chị vừa nói vừa chỉ từng gốc cây mà chị đã đứng ngày ấy, cách đây đã mười tám năm, từng góc chợ chỗ ấy bố chị đã ngồi uống rượu trong ngày cuối cùng của đời ông… Đồng chí phó chủ tịch bộ đội phục viên ngồi cạnh tôi dịch cho tôi nghe những câu nói của chị. Đồng chí ấy thúc vào đùi tôi bảo nhỏ:

– Gớm bà ấy nói lang bang thật, lại nói cả sang vấn đề lập nhóm giữ trẻ nữa kìa… Lại chuyển sang vấn đề hợp tác hóa rồi, giỏi thật!

– Đồng chí dịch cho tôi nghe đi!

– Này nhé, bà ấy nói thế này: ngày xưa người đối với người coi nhau như thú dữ, bây giờ có Đảng, có chính phủ, có Cụ Hồ, người với người mới tin nhau, giúp nhau như thể là anh em một nhà vậy. Đó là chủ nghĩa xã hội đấy, bà con ạ…

== Hết ==


Dốc Thẩm mã, đường lên Đồng Văn

========

"... Tô Hoài từng đi một chuyến công tác với Nguyên Ngọc lên Tây Bắc. Ông nhận xét, Nguyên Ngọc về tình cảm thì mềm, chỉ lý luận và cách ứng xử thì cứng. Nguyên Ngọc là đối tượng hấp dẫn của một cô gái Mèo xinh đẹp tên là Vàng Thị Mỹ ở Đồng Văn, Mèo Vạc, Hà Giang. Cô làm phiên dịch cho bộ đội. Tô Hoài nói, ba mươi năm gặp lại Vàng Thị Mỹ, thấy vẫn đẹp. Cô ghi vào cuốn sổ tay của mình: “Mùa hoa thuốc phiện cuối cùng ơi! (Mùa hoa thuốc phiện cuối cùng là tên một tác phẩm của Nguyên Ngọc). Chắc nhớ và yêu Nguyên Ngọc lắm mới viết như thế. Và Nguyên Ngọc chắc cũng yêu cô. Vì anh tả Thào Mỵ đẹp tuyệt vời, đẹp như tiên “Khi im lặng trầm uất như một ngọn núi Mèo cô độc, khi lẳng lơ như những bông hoa thuốc phiện quyến rũ, khi phấp phới như ngọn gió ào ạt trên đỉnh Săm Pun…”  Văn như thế thì cũng đa tình đáo để." (trích Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh)

 "Lần ấy, Thào Mỷ nhắn mời bác Nguyễn Tuân và tôi sang Mèo Vạc. Nhưng chúng tôi không sang được. Mấy năm sau, tôi lên Mèo Vạc, đi với Nguyễn Văn Bổng. Lần đầu tiên, Nguyễn Văn Bổng đặt chân đến Hà Giang. Những năm vừa qua, Nguyễn Văn Bổng đi chiến trường miền Nam, vào hoạt động bí mật trong Sài Gòn. ở Sài Gòn trở ra Bắc đi hộ chiếu giả theo đường bay Nôm Pênh - Quảng Châu - Hà Nội của hãng hàng không Pháp. Lưu lạc đã lắm đường đất thế, nhưng đến Mèo Vạc lại là chuyến xa nhất của anh lên biên giới phía bắc. Thào Mỷ cũng nghỉ hưu đã lâu. Đầu năm 1991 hơn ba mươi năm đã qua. Nguyên Ngọc trở lại cao nguyên Đồng Văn - Mèo Vạc. Nguyên Ngọc kể cho tôi biết Thào Mỷ bây giờ mở ngôi hàng nước ở chợ Mèo Vạc. Ôi, thế mà còn nhớ nhau, còn có lời thăm hỏi một thời sôi nổi và sóng gió. Thào Mỷ bị ép lấy chồng từ thuở bé theo phong tục. Khi lớn, Thào Mỷ bỏ về nhà mình - một việc mà chưa người đàn bà Mèo nào dám làm. Trong chiến dịch tiễu phỉ 1954, Thào Mỷ đi dịch tiếng địa phương giúp bộ đội. Gặp Nguyên Ngọc lần ấy trên mặt trận. Cũng chưa có dịp nào hỏi xem cái truyện ngắn Mùa hoa thuốc phiện cuối cùng của Nguyên Ngọc có dây mơ rễ má với Thào Mỷ thế nào mà trong sổ tay công tác của Thào Mỷ, giữa một trang giấy thấy ghi một câu gọi thật lạ lùng: Mùa hoa thuốc phiện cuối cùng ơi. Thào Mỷ hỏi thăm tôi về Nguyên Ngọc, về nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ. Chắc là Thào Mỷ thầm yêu cả hai người một đam mê khác đời của Thào Mỷ, người cầm bút, người cầm đàn ấy đã gặp Thào Mỷ trong trận tiễu phỉ trên núi. Tôi bảo Thào Mỷ ạ, Nguyên Ngọc đương ở chiến trường miền Nam. Thì đôi mắt xanh nâu của người con gái đẹp im lặng..

 Rồi Thào Mỷ trở thành cán bộ huyện Mèo Vạc - một phụ nữ dân tộc Mông tiên tiến. Thào Mỷ cũng như cô Mỹ nhân viên cửa hàng bách hoá ở Lũng Phin và con gái nuôi Ly Chờ của tôi. Chao ôi, con đường tình của người ta thì mấy ai biết được rồi ra hướng nào. Như quả báo và ám ảnh truyền kiếp, xưa kia Thào Mỷ ruồng rẫy thằng chồng ranh con, bây giờ Thào Mỷ chỉ đeo đuổi những người trai trẻ ít tuổi. Cái anh chàng mà cô lăn lóc sau cùng là một cảnh vệ ở huyện đội, người Tày quê Chợ Rã bên hồ Ba Bể Bắc Cạn. Chú cảnh vệ lệch với cô đến mười tuổi. Trong khi ấy Thào Mỷ từ chối người ta làm mối cho một cán bộ Kinh mà cả tuổi trẻ đã để vùi vào công tác rừng núi trên này. Nhưng ở thời ấy, một huyện uỷ viên đương phơi phới hứa hẹn như Thào Mỷ, làm sao đoàn thể lại có thể bằng lòng cho cô đẹp duyên với chú cảnh vệ trống choai kia.

Cái ngày tôi lên Mèo Vạc lần đầu, mọi chuyện về Thào Mỷ đương còn bời bời như vừa xẩy ra. Thào Mỷ tháo vát nhanh nhẹn, được làng xóm tin cậy. Thào Mỷ đưa tôi lên những núi trong huyện. Có lần về Nhá Sủa, làng quê Thào Mỷ. Tôi hỏi nửa thật nửa đùa: cho tôi nhìn cái mặt thằng chồng trẻ con ngày trước. Thào Mỷ nói: Nhìn nó làm gì, nó có trẻ con nữa đâu. Nó đã có vợ mà mình thì chưa được chồng. Rồi Thào Mỷ cúi mặt, dường như thở dài. Sớm mai, trên đường đầu xóm, một người vác cây vầu trong rừng ra. Người ấy đã đi khuất sang núi bên kia. Thào Mỷ nói: Nó đấy. Nó đấy cũng như mọi người tron làng, tôi làm sao biết được. Tôi vẫn thấy trong tưởng tượng cái thằng lỏi con cởi trần, đánh quay chơi trước nhà rồi bị vợ bỏ, ngoe ngoảy khóc thút thít. Kể cả ngày Nguyễn Văn Bổng và tôi lên Mèo Vạc lần ấy, nhiều năm đã qua rồi. Thào Mỷ đã làm phó chủ tịch huyện, phụ trách văn xã. Không ngờ rồi gầy yếu đến thế. Có lẽ vốn người nhỏ nhắn, lại xưa kia khi chê chồng đã ăn lá ngón tự vẫn nhiều lần nhưng được giải độc, không chết. Thào Mỷ đã có chồng. Tôi được tin mừng ấy từ lâu. Lại biết được người chồng ít tuổi hơn Thào Mỷ. Thoả lòng nhé. Nhưng nay mới tường mặt. Anh ấy người dân tộc Lô Lô, công nhân lâm trường, chưa biết chữ. Hôm đầu đến, không gặp. Anh lên quê trên Lũng Cú đã mấy hôm. Tôi hỏi: Hôm nào nó về? Thào Mỷ sa nước mắt. Tôi không hỏi nữa.

Đêm ấy, chúng tôi uống rượu ngô bằng những cái bát mắt vầu. Nhắm với thịt dê nước suýt thắng cố. Chảo thắng cố bắc giữa gian phòng ban văn xã của huyện. Cái đầu dê nổi lềnh bềnh, nước sôi lăn tăn xung quanh. Thào Mỷ uống rượu từng bát. Rồi khóc. Lại khóc. Khổ lắm. Nó đánh em. Đánh luôn, vừa đánh vừa chửi: tao đánh con mèo già, tao đánh phó chủ tịch huyện. Uỷ ban gọi nó lên. Nó xin chừa, nhưng rượu vào rồi, nó vẫn chửi thế, đánh thế. Biết làm thế nào bây giờ?

Biết làm thế nào? Hôm trở về, Nguyễn Văn Bổng bảo tôi:

- Heo hút, ảm đạm quá. Mình đến đây lần đầu, mà chắc cũng là lần cuối cùng thôi.

( trích Cát bụi chân ai - Tô Hoài)


Hoa Tam giác mạch trên cao nguyên đá Đồng Văn