Tác giả: Nguyễn Huy Thiệp
"Ðem truyện trăm năm giở lại bàn"
(Trần Tế Xương)
Nữa đầu thế kỷ trước, ở Kẻ Noi, huyện Từ Liêm, có ông Phạm
Ngọc Liên là bậc đại phú. Ông Liên xây nhà trên miếng đất đầu làng. Miếng đất
này bằng phẳng, rộng ba sào hai thước. Có người đi qua bảo rằng: "Ðất này
đẹp, hình bút, phát về văn học. Ðã phát về văn học thì nước cạn, tàu ráo, hiếm
con trai". Ông Liên nghe xong, níu áo người đó bảo: "Tôi bình sinh là
dân cày cuốc, mong con cháu sau này có ít chữ nghĩa mở mặt với đời. Hiếm con
cháu cũng được, miễn là có đức, thiên hạ, nể trọng". Người đó cười:
"Chữ nghĩa có ăn được không?". Ông Liên bảo: "Không ăn được".
Người đó bảo: "Thế đa mang chữ nghĩa làm gì?". Ông Liên bảo: "Gì
thì gì, nó vẫn hơn cày cuốc". Người đó bảo: "Nhiều chữ nghĩa thì có đức
à?". Ông Liên bảo: "Phải". Người đó cả cười, hỏi gì cũng không
nói nữa rồi phất áo đi. Ông Liên giận, bảo: "Ðồ cuồng".
Khánh thành nhà, ông Liên mổ hai lợn, một bò, làm lễ tế trời
đất, bày la liệt chín mươi mâm cổ. Dinh cơ quả đồ sộ, giữa là nhà thờ ba gian,
trạm trổ long, ly, quy, phượng. Nhà tiền tế năm gian, cửa bức bàn, cột tròn, gỗ
xoan rừng. Hai nhà ngang hai bên, sân gạch Bát Tràng, bình phong, bể nước, lại
xây tường cao ba mét xung quanh, trên cắm mảnh sành. mảnh thủy tinh. Vữa là vôi
cát trộn mật, đặc quánh.
Ông Liên ngồi giữa sân. bảo cả họ: "Lấy ngày 12 tháng
Giêng làm ngày giỗ tổ. Họ Phạm xưa nay trong làng không kém họ Ðỗ, họ Phan, họ
Hoàng. Chỉ hiềm họ Phạm làm ruộng, buôn bán, chưa có ai học hành đỗ đạt. Thiên
hạ coi mình là thô lậu. Tức lắm".
Ông Liên gọi năm con trai đến, bảo: "Con cháu chúng mày
thằng nào đỗ Thám Hoa, Bảng Nhãn, tao cho ăn tự cả cơ ngơi này, lại cho tất cả
của gia bảo. Cốt làm sao thiên hạ phải học cái đức họ Phạm nhà này".
Ông Liên sống đến 80 tuổi. Ông có ba vợ, năm con trai, sáu
con gái. Khi ông bệnh nặng, con trưởng là Phạm Ngọc Gia làm nghề mổ thịt lợn,
túc trực bên giường gần một tháng trời, mắt sâu hoắm, râu mọc tua tủa. Bên giường
ông Liên lúc nào cũng có chuối, cam, thịt giò, ngồn ngộn không thiếu thứ gì.
Ông Gia hỏi: "Cha thèm ăn gì không?". Ông Liên bảo thèm ăn cơm rau muống
chấm tương với cà. Ông Gia nấu cơm gạo tám vào nồi đất, đánh giấm canh bằng lá
chua me, bày đỉa rau với chén tương Bần, tự tay bưng lên cho cha. Ông Liên chỉ
húp được một thìa canh rồi xua đi. Ông Gia òa khóc. Ông Liên bảo: "Chẳng
ra gì. Chữ mới cần". Nói xong tắt thở. Lúc ấy là giờ Tỵ, ngày 24 tháng Chạp,
năm Canh Tí (1840).
Ông Gia bỏ tiền làm ma rất trọng thể. Sau ba ngày làm lễ
thành phục, tuần ba mươi nhăm ngày rước linh lên chùa, tuần bốn mươi chín, một
trăm ngày thảy đều tươm tất. Dân làng ai cũng khen ngợi là người có hiếu.
Sau đám ma, ông Gia cho sửa lại bàn thờ, xây thêm một gian nữa.
Còn toàn bộ cơ ngơi từ đó đến nay vẫn y nguyên. Thời gian có làm cho nó cũ kỹ,
múc nát, hư hỏng đi một vài bộ phận nhưng về cơ bản vẫn không thay đổi.
II
Ông Gia có một đứa cháu đích tôn là Phạm Ngọc Chiểu tuấn tú
lạ thường. Chiểu từ bé đã sáng dạ. Năm tám tuổi, có lần ông Gia cho cháu ra Kẻ
Chợ thăm phố phường. Thằng bé về, hí hoáy lấy cát, lấy đất sét xây một khu nhà
có tường bao, lại lấy lông gà nhuộm phẩm xanh làm cây, hệt như một cái sa bàn.
Trên sa bàn nặn những con rùa đội bia rất sinh động. Ông Gia vỗ tay hỏi: "
Cháu nặn gì đấy?". Thằng Chiểu cười, lộ hàm răng sún: "Ðây là Văn Miếu".
Ông Gia giật mình nghĩ: "Trời cho họ Phạm phát đường học vấn ở đứa bé này
chắc?". Hôm sau ông Gia ra phản thịt nhà mình ở chợ Kẻ Noi lấy cái thủ lợn
nặng sáu cân hai, lại bảo con dâu thổi một mâm xôi gấc, luộc thủ lợn đặt lên. đội
sang nhà Ðồ Ngoạn.
Ðồ Ngoạn mắt toét, đỗ tú tài năm Mậu Thìn (1868) là người thật
thà, nhà nghèo lắm. Thấy ông Gia đội xôi thịt đến, Ðồ Ngoạn giật mình, chạy ra
vái hai vái. Ông Gia đặt mâm xôi thịt xuống chân, bảo: "Không dám. Tôi
sang rước thày về dạy chữ cho thằng Chiểu đây". Ðồ Ngoạn rước khách vào
nhà, mời ngồi, vái lấy vái để: "Không giấu gì bác, tôi thiển học lắm. Tôi
gõ đầu trẻ cũng là trò bịt mắt thiên hạ kiếm gạo. Thực ra nhà tôi là nhà nhốt
trẻ để chúng đừng lêu lổng, ngã xuống ao, bắt ve sầu, khỏi chó cắn thôi. Bác rước
tôi về, sợ thất chí của bác". Ông Gia vừa bực mình, vừa buồn cười, bảo:
"Ông nói thế, tôi cũng không ép. Thân phụ tôi mất đi chỉ dặn làm sao cho
con cháu học thành tài, cướp cái cờ tiến sĩ về dựng ở sân từ đường". Ðồ
Ngoạn rùng mình: "Bác ơi, chữ nghĩa nó ghê gớm lắm. Nó là ma đấy. Yếu bóng
vía là nó ám mình, nó làm đau đớn thê thảm mới thôi". Lại ngồi thừ người
không nói năng gì. Vợ Ðồ Ngoạn mặc váy đụp, ra lạy ông Gia hai lạy rồi bảo chồng:
"Lũ trẻ đói quá, ông xin phép bác Cả đây ra chân Mả Phường rỡ ít khoai
lang, lấy rễ về luộc cho chúng ăn". Ông Gia hỏi: "Khoai trồng bao giờ
mà thím đã rỡ?". Vợ Ðồ Ngoạn bảo: "Em trồng cuối tháng Hai". Ông
Gia nhẩm tính: "Mới được năm mươi ngày, ăn thế nào được mà ăn?" Vợ Ðồ
Ngoạn bảo: "Nhà em hết gạo tám ngày rồi". Ông Gia thở dài: "Thím
bỏ xôi thịt ra cho các cháu ăn. Dọn mâm ra cho tôi với ông đồ uống rượu".
Nói rồi rút trong cạp quần ra cút rượu ngâm tắc kè.
Vợ Ðồ Ngoạn bưng xôi thịt xuống bếp, dọn hai mâm. Ông Gia và
Ðồ Ngoạn ngồi trong nhà uống rượu. Ngoài sân, tám đứa con của Ðồ Ngoạn ngồi xúm
xít xung quanh mẹ, chờ chia phần.
Ðồ Ngoạn bảo: "Tôi nghe ở Kẻ Lũ có ông Bình Chi, trước
là tri phủ Sơn Nam, bị cách chức, về ngồi dạy học, ông này kiến thức uyên thâm
mà cốt cách thanh cao lắm. Học được ông Bình Chi thì cờ tiến sĩ về tay họ Phạm
là cái chắc". Ông Gia gật đầu. Ăn uống xong, xách cái mâm đồng về, bụng bảo
dạ: "Phải đi Kẻ Lũ".
Ít bữa sau, chọn được ngày tốt,
ông Gia dẫn Chiểu tìm đường sang Kẻ Lũ đến nhà ông Bình Chi. Nhà ông Bình Chi
ven sông Tô Lịch, cơ ngơi cũng khá. Khi ông Gia đến, ông Bình Chi đang ngồi
bình văn với đám học trò. Có khoảng chục đứa con trai ngồi xếp bằng tròn trên
chiếu, đều trạc tuổi mười sáu, đứa nào trông cũng thông minh, nhanh nhẹn. Trước
mặt mỗi đứa có một quyển văn đóng bằng giấy dó, lại có nghiên mực để ngay bên cạnh.
Ông Bình Chi cho học trò nghỉ, ra sân chơi. Chiểu thích lắm,
đứng dựa cột xem. Ông Bình Chi rước ông Gia vào nhà, hỏi nguyện vọng. Ông Gia tự
giới thiệu, một diều bẩm, hai điều bẩm, cung kính lắm. Ông Bình Chi hỏi mục
đích học hành của Chiểu. Ông Gia chẳng biết trả lời ra sao, chỉ nói: "Tôi
thấy văn chương có cái gì từa tựa lẽ phải. Muốn cho cháu học thầy vì thế".
Ông Bình Chi bảo: "Văn chương có nhiều thứ lắm. Có thức văn chương hành
nghề kiếm sống. Có thứ văn chương sửa mình. Có thứ văn chương trốn đời, trốn việc.
Lại có thứ văn chương làm loạn". Ông Gia bảo: "Tôi hiểu rồi. Tôi là
nghề đồ tể, tôi biết. Cũng như có thịt mông, thịt thủ, thịt sấn, thịt dọi,
Nhưng cũng là thịt cả thôi". Ông Bình Chi bảo: "Ðúng đấy. Thế ông định
cho cháu học thứ văn chương nào?". Ông Gia bảo: "Tôi suy rằng thịt dọi
là thứ vừa phải, nhiều người mua, chẳng bao giờ ế. Vậy có thứ văn chương nào
tương tự như thế không, chỉ vừa phải, nhiều người theo thì cho cháu học".
Ông Bình Chi bảo: "Tôi hiểu rồi. Ðấy là thứ văn chương học để làm quan".
Ông Gia vỗ tay reo: "Phải". Nói xong, gọi Chiểu vào, bảo lạy ba lạy,
lấy ra một xấp lụa Hà Ðông, năm xâu tiền đồng, xin ông Bình Chi thâu nạp học
trò.
Ăn cơm xong, ông Gia dặn dò cháu rồi về. Chiểu chạy theo,
khóc gọi ông: "Ông ơi, cháu chẳng học đâu. Học phải xa nhà, mất ông, mất
cha mẹ thì học làm gì?" Ông Gia gạt nước mắt, bỏ đi như chạy. Ông Bình Chi
dỗ Chiểu vào nhà. Thằng bé mơ hồ hiểu rằng học đòi văn chương là nó bước vào một
cõi mà ở đấy, nó không thể nương tựa vào bất cứ cái gì, ngoài bản thân nó.
III
Hàng tháng, ông Gia sang Kẻ Lủ hai lần vào ngày mồng Một,
ngày 16 mang tiền, gạo, nuôi cháu ăn học. Chiểu học rất tấn tới, mười tuổi đọc
được Tứ Thư, Ngũ Kinh, mười hai tuổi giảng được sách, các sách "phá đề",
"phá thừa", "khởi giảng", "đề tỉ", "trung tỉ"
trong kinh nghĩa đều thông thạo. Ông Bình Chi bảo: "Thằng này học như thần,
tựa như miếng đất khô, đổ nước đến đâu là thấm". Ông Gia thích lắm, bảo:
"Họ nhà này mấy đời nay một chữ cắn đôi không biết, chỉ biết cày ải, gieo
mạ, pha thịt lợn. Thằng này rồi mang vinh hạnh cho cả họ đây". Bởi vậy,
Chiểu được chiều chuộng không thiếu thứ gì.
Ông Bình Chi có cô con gái tên là Diêu, trạc tuổi Chiểu, hai
đứa vẫn chơi thân với nhau, quyến luyến lắm. Chiểu bảo: "Lớn lên, tao lấy
mày làm vợ cả". Diêu đỏ bừng mặt, không nói năng gì. Một lần, Chiểu ra đồng
chơi, lê la đất cát với trẻ chăn trâu, hạ bộ bị tầm hỏi, dương vật sưng to. Ðầu
tiên chỉ thấy khó chịu, không ngồi học được, ông Bình Chi hỏi thế nào cũng
không nói, sau tấy lên, rất đau. Diêu lấy một cọng rơm, đo bằng chiều dài
dương vật của Chiểu, gấp ba lại, xòe ra, lấy dao chặt cọng rơm, rồi bảo rửa sạch
bằng nước muối. Thế là khỏi, Chiểu cám ơn lắm.
Năm Mậu Tý (1888), Chiểu đỗ tú tài. Ông Gia làm cỗ khao cả
làng. Cỗ to lắm, bảy bát, bảy đĩa. Bảy bát là một bát măng, một bát miến, một
bát khoai sọ, hai bát bóng thả, hai bát đậu nhồi. Bảy đĩa là một đĩa thịt gà, một
đĩa ngỗng quay, một đĩa thịt lợn, một đĩa giả hạnh nhân, một đĩa nem chạo, một
đĩa nộm, một đĩa dưa ghém. Ông Bình Chi sang dự, cứ nức nở khen cơ ngơi đẹp.
Ðến năm sau, ông Gia mất. Khoảng thời gian này trường thi dời
xuống Nam Ðịnh, nên Chiểu phải xuống đấy thi. Ông Gia chết mắt mở trừng trừng,
vuốt thế nào cũng không nhắm. Có người bảo: "Cụ chờ tin cậu Chiểu".
Sau phải lấy đủa cả hơ nóng, day ở trên mắt một lúc mới cụp mi xuống. Ở nhà không
dám báo
tin cho Chiểu vì sợ Chiểu hỏng thi. Bấy giờ trời mưa phùn, đường phố nhớp nháp,
Chiểu trọ học trong nhà một cô đầu ở phố Hàng Thao Nam Ðịnh, suốt ngày văn ôn
võ luyện. Cô đầu tên là Thắm, dạy Chiểu đủ các ngón chơi. Kỳ thi ấy, Chiểu đỗ
thứ ba nhưng bị đổ bệnh tim la, dương vật lúc nào cũng cương đỏ, hạ bộ nhức nhối.
Chịu xong tang ông nội, Chiểu được bổ làm tri huyện Tiên Du.
Tiên Du là huyện lớn, thóc gạo nhiều, con gái ở Bịu, Lim hát quan họ rất hay,
làm quan ở đấy thật sướng như trời. Chiểu làm quan, nhớ lời thầy học mình dặn rằng:
"Làm quan chỉ là nghề kiếm sống, không kiếm được là dại", vì vậy ra sức
đục khoét. Sân công đường để một cái cùm gỗ nghiến, trên có một cối đá lỗ rất
to chặn lên, có người bị cùm nát cả mắt cá chân, về mưng mủ, vết thương có dòi,
lên cơn uốn ván mười ngày thì chết. Dân sợ lắm. Trong huyện ba năm không xảy ra
kiện cáo, trộm cướp, có tiếng là yên bình, công sứ Bắc Ninh mấy lần mời Chiểu
lên ăn tiệc.
Chiểu có hai vợ. Bà Diêu thấy chồng mình làm nhiều việc thất
đức, lo sợ lắm, lại thấy cả mình, cả bà hai đều chẳng sinh nở được mụn con trai
nào, đẻ toàn con gái thì đêm ngày cầu Trời khấn Phật, nhà thờ tổ ở Kẻ Noi không
lúc nào ngớt khói hương.
Mang bệnh, Chiểu người khó chịu, tính nết thất thường nên
nha lại rất sợ. Một hôm, có người bạn học tên là Ấm Sắc ở Từ Sơn lên chơi, tạ
ơn vì một vụ kiện tranh ruộng đất, Chiểu đã xử cho Ấm Sắc được kiện. Ấm Sắc bê
vào hai nồi gạo nếp, hai nồi gạo tẻ, một nồi đỗ xanh, năm cặp vịt bầu. Chiểu liếc
mắt nhìn qua lễ vật rồi bảo: "Bác thật phí tâm". Ấm Sắc bảo: "Có
gì đâu. Toàn là của nhà lá vườn". Chiểu giữ Ấm Sắc ở lại ăn cơm.
Khi ăn cơm, Ấm Sắc cứ thấy Chiểu đứng ngồi không yên, mới hỏi:
"Bác bị nhọt hạch à?". Chiểu bảo: "Tôi bị bệnh hoa liễu". Ấm Sắc bảo: "Tôi quen lang Vòng chữa bệnh thần tình lắm". Chiểu bảo:
"Tôi không tin bọn lang vườn, toàn nhảm nhí, nghe họ vừa mất tiền, bệnh lại
không khỏi". Ấm Sắc bảo: "Lang Vòng kỳ lạ lắm. Có ông Ðồ Thống bị cảm
gió, người co lại như con tôm, thuốc thang thế nào cũng không khỏi. Người nhà
võng đến lang Vòng. Lang Vòng mời ngồi, không ngồi được, bảo đứng, không đứng
được. Lang Vòng đập bàn quát: "Cái lão này, già rồi còn dê cụ, ăn uống vô
độ, chơi bời nhiều. Lại cư xử thất đức mới hóa thế này". Ðồ Thống tím mặt,
nghĩ mình suốt đời tằn tịu, có biết thế nào là thịt ngon, gái đẹp đâu, bị vu
như thế thì uất không nói được. Lang Vòng bất ngờ đứng dậy đạp cho một cái. Ðồ
Thống ngã lăn ra, nghe "cục" một cái giữa sống lưng, thế là khỏi bệnh.
Bấy giờ mới biết Lang Vòng chữa mẹo, cứ thế phục xuống lạy như tế sao!". Ấm Sắc lại kể: "Ở dưới
Phố Nối có một cô cổ ngoẹo sang bên. Mang đến Lang Vòng, lang bảo quây cót lại,
bắt cởi truồng ra, rồi nhìn vào cái gương nhỏ để trước mặt. Bất ngờ, lang Vòng
xô cót bước vào. Cô kia hốt hoảng, ngồi thụp ngay xuống, quay cổ lại nhìn. Thế
là khỏi bệnh". Chiểu cười: "Các truyện bác kể đều chỉ chữa bệnh gió
máy, như tôi là bệnh gió trăng thì chữa thế nào?". Ấm Sắc bảo: "Bác đừng
lo, lang Vòng chữa được bách bệnh". Chiểu gật đầu, bảo người nhà sắm lễ vật
rồi cùng ấm Sắc đi đến nhà lang Vòng.
Nhà lang Vòng ở Diềm, nghe tri huyện Tiên Du đến, lang Vòng
cho trải chiếu hoa từ ngõ vào thềm. Chiểu sai lính lệ đưa lễ vật vào, rất hậu.
Lang Vòng pha trà mời. Chiểu liếc mắt thấy lang Vòng còn trẻ nhưng tóc bạc phơ,
mắt sáng, tai như tai Phật, biết là người có tướng lạ, trong bụng mừng lắm. Khi
kể bệnh, Chiểu không dấu diếm tí gì. Lang Vòng bắt mạch, bảo: "Bệnh này có
bốn cấp, cấp một thì quy đầu có khe nứt, nước trắng rỉ ra, rất khắm, tiểu tiện
thấy buốt, chữa hai tháng là khỏi. Cấp hai thì quy đầu lở loét, người sốt, gáy
nóng, ăn không thấy ngon, buồn chân buồn tay, lúc nào cũng bứt rứt, chữa ba
tháng là khỏi. Cấp ba là quy đầu mưng mủ, tiểu tiện ra máu, xuất tinh ngày vài
lần, không đi đứng được, chữa ba năm thì khỏi, nhưng chữa được cũng khó. Cấp bốn
là tay bắt chuồn chuồn, mắt đờ dại, vết lở loét ăn lên bụng, xuống chân, đến cấp
này thì đi đóng ván". Chiểu rùng mình, hỏi: "Thầy nói vậy, thế như
tôi ở cấp nào?". Lang Vòng bảo: "Cấp hai". Chiểu thở phào. Lang
Vòng bảo: "Cấp một, cấp hai cũng bình thường thôi, quan lớn đừng lo".
Chữa khỏi bệnh, Chiểu tính tình cũng có dịu đi đôi chút. Năm
ấy cho mở hội Lim rất to, mời lang Vòng về làm thượng khách. Sau hôm giã hội,
Chiểu thấy trời về chiều rất đẹp mới sai lính bày tiệc ra sân công đường uống
rượu. Dân không ai dám đi qua con đường trước cửa huyện lỵ. Chiểu ngồi ngất ngưởng,
sau lưng có hai lính lệ cầm quạt phe phẩy. Chiểu bảo: "Ta là người có học
đầu tiên của họ Phạm đây. Chỉ tiếc làm quan xa nhà, chưa làm gì được cho quê
cha, đất tổ". Lúc ấy, bỗng nhiên có cái kiệu đi qua trước cổng, Chiểu tức
mình, mắng: "Thằng nào láo, qua dinh quan huyện mà không xuống kiệu. Chúng
mày ra xem nó là ai lôi cổ vào đây". Lính chạy ra giữ kiệu lại. Hóa ra là
cố đạo Tây. Chiểu đang say, sai lính nọc ra đánh ba chục roi. Cố đạo Tây bị
đánh, tức lắm. Sau vụ ấy, Chiểu bị thất sủng, cách chức về vườn. Lúc bấy giờ bốn
mươi hai tuổi.
IV
Cố đạo Tây bị Chiểu đánh tên là Jean Puginier rất có thế lực.
Ðường công danh của Chiểu thế là đứt gánh giữa đường, Chiểu về nhà, bất đắc
chí, suốt ngày nằm phục trong ngôi từ đường ở Kẻ Noi. Dân làng kháo Chiểu có
chân trong nhóm văn thân chống Pháp, tri huyện Tiên Du là tướng của ông Ðề Nắm,
Ðề Thám trên Yên Thế. Lại đồn Chiểu làm quan thanh liêm, không ăn cánh với triều
đình bấy giờ đang vọng ngoại tộc, do đó mới bị bãi chức. Một đồn mười, mười đồn
trăm, tên tuổi Chiểu trong vùng bỗng thành danh giá. Chiểu không nói năng gì,
nghiễm nhiên coi việc đánh cố đạo Tây là cử chỉ nghĩa khí nhất trong đời làm
quan. Bấy giờ ở Kẻ Noi người ta đứng ra quyên góp tiền bạc để xây đường gạch,
Chiểu nghĩ mình chưa làm được gì cho thôn xóm, bèn trích một số tiền lớn ra sửa
đình và xây toàn bộ cổng làng. Bởi thế người ta nói đến Chiểu như nói đến bậc
thánh nhân. Bấy giờ cánh văn thân và hào lý trong vùng đều trọng nể Chiểu. Chiểu
ngồi buồn, thỉnh thoảng lại giở bộ thẻ ngà ra coi, thở dài mãi.
Bà Diêu thấy mình không có con trai, rủ Chiểu đi chùa Hương
cầu tự. Chiểu nghe lời. Nhằm ngày mồng 1 tháng Hai, hai người dậy từ ga gáy,
cơm nước xong, khăn áo ra đi. Qua Hà Ðông, bà Diêu mua năm chục oản, vàng,
hương, sớ cầu tự, rồi ra thuê xe ngựa đi. Hôm ấy trời mưa phùn, gió rét lắm. Chủ
xe ngựa trạc năm mươi tuổi, trán thấp, tướng mạo bần tiện, mặc cả với bà Diêu hệt
như một mụ hàng tôm. Qua Vân Ðình, thấy nhiều người cũng đi chùa Hương, các bà
già mắc áo tứ thân, khoác áo tơi, đi thành đoàn, có đoàn đến ba chục vị. Lại có
mấy công tử đội khăn xếp, mặc quần ống sớ cũng đi thành nhóm. Lên bờ đê, mưa
phùn lất phất, gió thổi mạnh, đoàn người cứ chúi về phía trước hệt như những
toán linh hồn lang thang trong tích chèo cổ. Qua một quán rượu ven đường, Chiểu
bảo dừng xe lại.
Chiểu vào quán, gọi rượu, thịt chó. Bà Diêu ngăn chồng bảo
đi chùa Hương đừng ăn tạp. Chiểu cười: "Xưa nay vẫn nói Phật ở tâm, ai nói
Phật ở bụng? Thịt chó Vân Ðình nổi tiếng, không ăn là dại". Bà Diêu không
biếu nói sao, giở cơm nắm ra ăn.
Chủ quán bê ra một đĩa thịt chó luộc, mỗi đĩa dồi hấp, một
đĩa nhựa mận, một đĩa chả nướng, một bát xáo xương, một bát tiết canh, một ve
rượu trắng. Chiểu ăn uống nhồm nhoàm, hệt như một gã trương tuần. Bà Diêu ăn
xong, mua một cặp bánh chưng mang cho người đánh xe ngựa rồi ngồi trong xe đợi
chồng.
Chiểu đang ăn, thấy một người đội khăn xếp, mặc áo the, cầm
ô lục soạn đi vào. Người đó nhìn thấy Chiểu, vội bó ô, chắp tay vái. Chiểu cầm
đũa chỉ người đó hỏi: "Ông cần gì tôi?". Người đó bảo: "Quan bác
không nhận ra em à? Em là Hàn Soạn, trước ở Tiên Du, quan bác có lần cứu em khỏi
tội". Chiểu "à" một tiếng rồi mời ngồi. Hàn Soạn bảo: "Hồi
đó có bọn trộm ở Cẩm Sơn bị lính huyện bắt, chúng vu cho em cầm đầu chúng nó.
Quan bác khám nhà, thấy có đồ ăn trộm nhưng lờ đi cho". Chiểu bảo:
"Phải rồi. Sau ông lễ tạ một chục nồi thóc với bộ đỉnh đồng". Hàn Soạn
gật đầu.
Hàn huyên một lúc. Hàn Soạn hỏi: "Quan bác đi chùa
Hương cầu gì?". Chiểu bảo: "Cầu tự". Hàn Soạn cười: "em thấy
bà chị trong xe ngựa rồi. Bà chị cũng đã luống tuổi, có cầu tự thì Phật cũng
cho nhưng mà cho ép. Trong chùa Hương có ni cô Huệ Liên là con gái tuần phủ
Ninh Bình, xinh đẹp mà nết na lắm. Chán đời không thấy ai đáng mặt nên mới cắt
tóc đi tu được nữa năm nay. Trong nửa năm, phép thiền chưa thấm được đâu. Quan
bác nên cầu duyên rồi hãy cầu tự". Chiểu là người mê gái, nghe thấy vậy
thích lắm, hỏi rằng: "Thế cầu duyên thì phải thế nào?". Hoàn Soạn
không trả lời, mắt nhìn vào ve rượu. Chiểu biết ý, gọi thêm một suất ăn nữa.
Hàn Soạn ăn uống xong, bảo Chiểu: "Em vốn có quen ni cô
Huệ Liên. Nàng cốt cách thanh cao, rất mê truyện anh hùng nghĩa khí. Trước nàng
nghe truyện Hàm Nghi ra chiếu Cần Vương, cũng đã định cắt tóc cải trang đi
theo. Cha nàng biết chuyện, giận lắm, nọc ra đánh. Sau này, vị hôn phu theo ông
Ðề Thám, chết ở Phúc Yên, vì vậy mới phẫn chí đi tu. Việc quan bác đánh cố đạo
Tây cả nước đều biết, ai cũng cảm phục. Nếu bác ngỏ ý thì việc tất thành".
Chiểu mừng lắm, nghĩ một lúc rồi bảo: "Chuyện này khó. Kéo gái ra khỏi buồng
khuê thì ta làm nhiều lần rồi, không sợ, nhưng kéo gái ra khỏi buồng Phật thì
chịu, chưa làm bao giờ". Hàn Soạn cười: "Việc này có năm bước. Em
quen hòa thượng trụ trì ở chùa Thiên Trù là nơi ni cô Huệ Liên ở đó. Ðến đấy,
quan bác giả đò đau bụng rồi bảo bà chị cứ đi vào chùa Trong trước, quan bác
đưa biếu hòa thượng một lạng vàng, nếu hòa thượng không nhận thì thôi, coi như
hỏng việc. Nếu hòa thượng nhận, thế là được một bước. Ðêm đó hòa thượng cho
quan bác nghỉ ngơi trong trai phòng, quan bác đưa cho em một lạng vàng để em lo
gác bên ngoài, hòa thượng mời cơm chay, có ni cô hầu rượu. Quan bác ép ni cô uống
một cốc rượu có pha thuốc mê, nếu ni cô không uống thì thôi, coi như hỏng việc.
Nếu ni cô uống, thế là được hai bước. Dọn mâm xong, ni cô say thuốc, hòa thượng
quay đi, quan bác bế ni cô lên giường, thế là được ba bước. Quan bác cởi y phục
nhà chùa của ni cô ra, muốn làm gì thì làm, thế là bốn bước. Sáng hôm sau, ni
cô tỉnh lại, hòa thượng với em vào, chửi mắng quan bác với ni cô làm nhục cửa
thiền, bắt quan bác phải ký văn tự nhận ni cô về, quan bác nộp vào hòm công đức
một lạng vàng xá tội, thế là năm bước". Chiểu cười: "Ðược, nhưng ông
anh nói nhanh quá, thế là mấy lạng vàng?". Hàn Soạn bảo: "Ba lạng".
Chiểu nghĩ ngợi: "Ba lạng thì ta có thể mua được sáu bà vợ". Hàn Soạn
bảo: "Tùy quan bác, nhưng ni cô Huệ Liên thì chỉ có một". Chiểu bảo:
"Ông nói phải". Nói xong, trả tiền rượu, dẫn Hàn Soạn ra xe. Bà Diêu
hỏi: "Ai đấy?". Chiểu bảo: "Bạn tôi". Hàn Soạn chào bà Diêu
rất cung kính rồi ngồi nép vào một góc xe, cái ô đặt lên đùi, mắt nhìn thẳng, cả
chặng đường không nói năng gì.
V
Ðến bến Ðục vừa đúng giờ Ngọ. Người đi hội rất đông. Thuyền
thúng đỗ chụm lại dưới suối Yến đến vài chục cái. Bà Diêu thuê một đò nhỏ có
sáu chỗ ngồi, cả lượt đi lượt về mà giá chỉ tương đương với năm đấu gạo. Lái đò
là một cô gái rất xinh, mau mồm miệng. Ðò lướt đi trên suối êm như ru, phong cảnh
hữu tình. Mái chèo đong đưa rẽ sang hai bên những cây rong và cây lau nước. Và
con chuồn chuồn kim, chuồn chuồn nước bay theo đậu cả bên sạp đò. Vào chùa
Trình, bà Diêu dâng sớ. Chiểu đứng đằng sau, lầm rầm khấn: "Nếu Phật cho
ni cô Huệ Liên, xin hậu tạ một bữa tiệc chay thật hậu".
Hàn Soạn thông thạo vùng này, đi đến đâu kể sự tích dến đấy,
bà Diêu rất khâm phục. Thuyền đi ngược, thuyền đi xuôi, ai cũng chào nhau thật
lễ độ.. Ði trên suối, con người như thoát tục, tự nhiên thấy cảm động, mới thấy
mình sống ở đời thật bụi bặm.
Ðến bến Ðá, lái đò neo lại ngồi chờ. Hàn Soạn đi trước, bà
Diêu và Chiểu đi theo. Xung quanh Thiên Trù chật ních người, khói hương ngào ngạt.
Người bán hàng ngồi la liệt. Những hàng cơm và lều trọ dựng sơ sài bằng tre nứa
nhưng sạch sẽ. Hàn Soạn dẫn Chiểu và bà Diêu vào chào hòa thượng trụ trì. Hòa
thượng béo tốt, hồng hào, lông mày như vẽ, đôi mắt lờ đờ trông như mắt cá,
không đoán được đấy là hiền hay ác, kiến thức nông hay sâu. Bà Diêu dâng lễ vật.
Chiểu thấy hòa thượng gật đầu, thâu lễ vật rất thạo và nhanh, bèn nghĩ bụng:
"Việc chắc thành". Ngồi một lát, nói dăm câu chuyện bâng quơ, thấy ni
cô Huệ Liên bước ra chào, Chiểu liếc mắt, ngẫm lời Hàn Soạn nói quả không sai,
bụng mừng lắm.
Cúng vái xong, Chiểu kêu đau bụng. Bà Diêu là người thật
thà, không biết đấy là mưu của Hàn Soạn, cứ cuống quýt lên, Chiểu và Hàn Soạn dỗ
mãi, bà Diêu mới để đồ đạc lại rồi vào chùa Trong một mình, vừa đi vừa áy náy
không yên.
Chiểu ở lại, cứ y kế Hàn Soạn mà làm. Thương thay cho ni cô
Huệ Liên, muốn đi tu để quên sự đời mà không trót được.
Huệ Liên tên thật là Ðỗ Thị Ninh, về làm vợ ba của Chiểu thì
một năm sau sinh con trai đặt tên là Phạm Ngọc Phong.
VI
Phạm Ngọc Phong được mười sáu tuổi thì mất cả cha lẫn mẹ.
Hôm ấy là ngày tiệc làng 11 tháng Tư. Chiểu ra đình lễ, về nhà thấy người ngây
ngất mới vào buồng nằm. Buổi chiều thấy gây gấy sốt, ăn có nửa bát cơm rồi bỏ mứa.
Bà Diêu sai cô Ninh đi hái lá hương nhu, lá bưởi, lá tre về nấu nước xông. Chiểu
không nghe. Sẵn nước nóng, cô Ninh mang đi tắm. Nữa đêm, thấy vợ ba thơm tho,
Chiểu nổi máu phong tình. Sau cuộc mây mưa, người Chiểu cứ lịm đi, đến sáng thì
mất. Cô Ninh sợ quá, khóc ầm lên. Bà Diêu giận lắm, mắng rằng: "Ðồ con đĩ.
Tu không trót. Bây giờ lại giết chồng". Cô Ninh tủi phận, nghĩ mình bị lừa
về làm vợ ba chẳng khác con ở, làm đủ việc nhà, ngủ với chồng cũng phải giấu giếm,
bây giờ mang tiếng oan giết chồng, thế là đi tắt qua đê ra sông tự vẫn. Ở nhà
đang nhập quan Chiểu thì đám chài ở sông vào báo vớt được xác cô ba. Bà Diêu đập
đầu xuống đất than rằng: "Con dâm phụ thật là tiền oan nghiệp chướng".
Hai đám tang một lúc, áo quan chàng đi trước, áo quan nàng theo sau. Chuyện này
ầm ĩ cả vùng, ba chục năm sau người ta còn kể. Cánh hương lý trong làng thấy cơ
hội làm tiền được, đòi khám nghiệm tử thi, coi cô Ninh chết do bức tử. Bà Diêu
phải lo lót, bán đi năm mẫu ruộng mới yên chuyện.
Sau lần ấy, bà Diêu ốm nặng, thành người lẫn lộn, dở khôn dở
dại.
Phong lớn lên, học chữ quốc ngữ. Tính nết Phong lông bông,
ương ngạnh. Phong được ăn tự cả cơ ngơi hơn chục mẫu ruộng nhưng không thiết, tất
cả giao cho chị gái quản lý. Chị Phong tên là Cẩm, con bà hai, ở vậy không lấy
chồng, tính nết nhu mì, hiền thục.
Phong ra Hà Nội học, thỉnh thoảng mới về nhà. Một hôm, Phong
dẫn về một người đàn bà hơn Phong đến chục tuổi, người cao lớn, đen đúa, răng
vàng, bụng chửa khệ nệ. Phong bảo bà Cẩm: "Ðây là cô Lan, sinh viên trường
thuốc, cháu của ông Tân Dân làm báo ngoài Hà Nội. Chúng em ăn ở với nhau được một
năm rồi". Bà Cẩm tái mặt, ngồi im không biết nói sao. Cô Lan cúi đầu, mặt
đỏ như gấc, tay mân mê tà áo may bằng thứ vải lụa Bom-bay, cổ khoét rộng, lộ một
chuỗi dây chuyền bằng vàng. Bà Cẩm hỏi: "Thế cậu mợ tính sao?". Phong
bảo: "Cô Lan ở nhà. Em ra Hà Nội hùn vốn làm báo". Bà Cẩm bảo:
"Cậu ơi, nhà ta xưa nay làm ruộng, mổ thịt lợn. Tôi nghiệm những người bỏ
quê ra ngoài múa may đều không ra gì. Cái chí của cậu, tôi là đàn bà không biết
nói sao, chỉ khuyên cậu nên chừng mực thôi". Phong thọc hai tay vào túi áo
vét, mỉm cười: "Merci". Bà Cẩm ngơ ra không hiểu em trai nói gì. Ðến
bữa, cô Lan xơi có nữa bát cơm, ngồi gẩy gẩy từng hạt một. Có món canh khế nấu
thịt nạc rất ngon, bà Cẩm chan vào bát ép ăn. Phong giãy nảy: "Chết, nhà
em kiêng ăn hành". Bà Cẩm đỏ bừng mặt. Cơm xong, Phong phải ra chợ Kẻ Noi
mua hai chiếc bánh dày cặp chả cho vợ ăn.
Cô Lan ở nhà một tuần đầu không ra khỏi buồng, chỉ toàn nằm
đọc sách. Bà Cẩm sợ Phong, cứ nín nhịn không nói năng gì. Một hôm cô Lan hỏi bà
Cẩm: "Nhà ta có bao nhiêu ruộng?". Bà Cẩm bảo: "Hơn chục mẫu. Cậu
Phong bán đi tám mẫu mang tiền ra Hà Nội làm ăn. Nhà bây giờ còn ba mẫu. Lại
còn một phản thịt lợn ở chợ Kẻ Noi". Cô Lan hỏi: "Phản thịt ai
trông?". Bà Cẩm bảo: "Tôi thuê ông Bỉnh là người trong họ. Vốn mình bỏ
ra, còn lãi chia đôi". Cô Lan bảo: "Từ mai tôi trông coi phản thịt".
Hôm sau ra chợ xem xét, bụng mang dạ chửa nhưng cắt đắt việc đâu vào đấy, tiền
nong rạch ròi, bà Cẩm với ông Bỉnh hãi lắm. Ông Bỉnh không dám ăn bớt một xu.
Bà Diêu ngày càng yếu, lẫn lộn, cứ quanh quẫn trong buồng, ỉa
đái ngay chỗ nằm. Phong bảo: "Sao con mẹ này sống dai thế?". Cô Lan bảo:
"Cho liều thuốc chuột là yên". Phong bảo: "Không cần, cứ để đói
vài ngày". Nói xong quay ra bảo bà Cẩm: "Từ hôm nay đừng cho mẹ Cả ăn
nữa, tám mươi hai tuổi rồi, sống làm quái gì?". Bà Cẩm sợ hãi: "Cậu
ơi, cậu nghĩ lại đi, phải để phúc đức cho con cháu chứ?". Phong trừng mắt,
bảo: "Con ác tặc này nó giết mẹ tôi chị có biết không?". Bà Cẩm cứ
kêu khổ. Phong khóa cửa lại rồi cất chìa khóa vào túi áo vét.
Bà Diêu bị nhốt trong buồng, đói khát lắm, bốc cả phân ăn. Mỗi
ngày một lần, Phong mở cửa khóa xem đã chết chưa. Ðến hơn nữa tháng, bà Diêu vẫn
sống nhăn răng. Phong phát hoảng, bảo vợ: "Con mẹ này là phù thủy chắc?
Hay nó luyện được thuốc trường sinh?". Cô Lan đến xem, thấy có một hạt cơm
rơi ở dưới chân giường, cười nhạt bảo rằng: "Mẹ Cả anh còn sống lâu lắm.
Khéo nó còn sống để chôn anh với tôi cơ đấy". Lại hỏi Phong: "Chìa
khóa để đâu?". Phong chỉ vào áo vét treo ở tường. Cô Lan bảo: "Thảo
nào. Anh đưa đây để tôi phá phép của con phù thủy này cho". Nói rồi cầm
chìa khóa cho vào cái ví xách tay.
Khoảng nữa đêm, cô Lan bấu Phong dậy. Cái áo vét Phong treo ở
sập gụ gian ngoài. Dưới bóng trăng mờ mờ, thấy một bóng đen đang lần sờ túi áo.
Cô Lan cầm tay thước gỗ lim quật thẳng vào đầu bóng đen, chỉ nghe "ối"
một tiếng rồi ngã vật xuống. Phong thắp đèn lên thấy bà Cẩm máu me đầm đìa trên
trán. Cô Lan bảo: "Khổ quá, tôi cứ tưởng trộm". Phong gắt bà Cẩm:
"Chị lần ra đây làm gì?". Bà Cẩm rên hừ hừ, mặt úp vào bát cơm nguội
đầy máu trên sập gụ.
Ba ngày sau, bà Diêu mất. Phong làm ma tử tế, đặt tên hiệu
là Ðoan Thuận. Còn bà Cẩm, vai trò quản lý lu mờ đi. Cô Lan đứng ra điều hành
toàn bộ công việc. Ðứa con gái cô Lan đẻ đặt tên là Huệ. Cô Lan thuê một người
vú để trông nom nó. Con bé lớn lên, kháu khỉnh, nhưng mẹ nó không thích nó. Việc
nuôi dạy nó được giao hoàn toàn cho người vú và bà Cẩm.
VII
Ông Tân Dân tên thật là Nguyễn Anh Thường. Trong làng báo,
làng văn, ông khá nổi tiếng. Người ta cũng có trách ông là hay la liếm, ăn tham
như mõ, nhưng việc đó không can hệ gì. Ông Tân Dân bảo Phong: "Văn chương
phải bất chấp hết. Ngập trong bùn, sục tung lên, thoát thành bướm và hoa, đấy
là chí thánh". Phong chỉ gật đầu. Ông Tân Dân và Phong hùn vốn làm ăn, nói
là làm báo, nhưng thực chỉ buôn giấy.
Một hôm, ông Tân Dân bảo Phong: "Tôi vừa xin được giấy
phép buôn muối. Chú ra tay đi. Chú xuống Phát Diệm, ở đấy có cha Tất là người
tôi quen. Việc lấy hàng cha Tất lo. Ta lên miền núi bán. Tôi đi Sơn La, tìm lão
tri châu Cầm Vĩnh An bàn bạc". Phong gật đầu.
Phong đến Phát Diệm, tìm đến nhà thờ đá. Ðấy là một khu đất
rộng đến vài ba mẫu gồm cả một hệ thống vừa công viên, vừa lăng tẩm, vừa nhà thờ,
vừa trường dòng, xây cất rất công phu. Phía trước có một hồ bán nguyệt rộng, nước
trong văn vắt, nhìn rõ cả những con cá bơi lội tung tăng. Lại có cả những núi
đá giả đặt tượng Ðức Mẹ và Chúa Giêsu trắng toát. Phong đứng nhìn, lòng rất
thán phục, bèn nghĩ thầm: "Mẹ khỉ, cả nước mình
có lẽ chỉ có công trình này được gọi là công trình kiến trúc của muôn đời. Ðạo
Thiên Chúa là thứ đạo gì ghê gớm vậy?"
Quanh quẫn một lúc, thấy có người bõ già đi ra dẫn Phong đi
vào. Cha Tất còn trẻ, trắng trẻo, trán cao, có đôi mắt rất hóm. Ðọc xong thư của
ông Tân Dân, cha Tất mời Phong ngồi, đoạn vẫy tay ra phía đằng sau. Có một thiếu
niên mặc áo chùng đen bưng trà ra mời. Lại thấy hai thiếu niên cũng mặc áo
chùng đen đứng sau lưng hầu quạt. Phong uống nước, thấy trà thơm lừng. Phong hỏi:
"Thưa cha, việc chúng con nhờ cậy liệu có thành không?" Cha Tất nhỏ
nhẹ: "Kinh Thánh nói:'Có ai trong anh em, khi con mình xin bánh lại cho nó
hòn đá không?'. Con cứ yên tâm, cứ ở đây nghỉ rồi đâu vào đấy". Phong xin
phép ra ngoài nhà trọ, Cha Tất bằng lòng.
Phong nằm trên gác nhà trọ, trời mưa tí tách. Kè kè một túi
tiền nên Phong không dám đi đâu. Chủ quán trọ suốt ngày cứ ngồi ủ rũ trước hiên
nhà trông ra ngoài đường. Phong buồn quá, hết đứng lại ngồi, giở đi giở lại cuốn
truyện Trê Cóc in trên giấy bản, đọc đi đọc lại. Phong không biết nhà này có
bao nhiêu người mà chẳng có ai đi ra đi vào gì cả. Một hôm, Phong đánh liều hỏi
chủ quán: "Ở đây
có con điếm
nào xinh không?". Chủ quán gật đầu. Phong bảo: "Gọi cho tôi một đứa".
Chủ quán hỏi: "Ông thích loại còn tân hay đã mất tân?". Phong vỗ đùi
đánh đét: "Còn tân thì nói gì nữa?". Chú quán đứng dậy, đi xuống nhà
ngang, lát sau dẫn lên đứa con gái trạc mười lăm tuổi. Chủ quán bảo: "Ðây
là con gái tôi". Phong uống nước, suýt nữa thì nghẹn.
Ðứa con gái mới lớn, chưa biết gì về chuyện hoa nguyệt,
Phong cũng thương thương nhưng rồi tặc lưỡi: "Băn khoăn làm gì, tất cả rồi
sẽ qua đi". Phong kéo nó lên gác, con bé vừa đi vừa làm dấu, miệng kêu tên
chúa.
Ðược vài ngày, ông bõ già đến gặp Phong bảo: "Chuyện của
cậu cha Tất lo xong rồi. Cậu về Hà Nội mà nhận hàng". Phong cầm giấy tờ,
giao tiền cho ông bõ già, cứ thầm phục tay cha cố trẻ măng mà làm việc đâu vào
đấy.
Phong về Hà Nội, tìm đến nhà ông Tân Dân. Ðây là lần đầu
tiên Phong đến nhà riêng của lão. Phong bấm chuông gọi, một con chó Tây lao ra.
Một người bồi đi sau gọi: "lu lu". Con chó cụp đuôi đi vào. Người bồi
hỏi: "Ông cần gì?". Phong bảo: "Tôi là Phong". Nói rồi đưa
danh thiếp ra. Người bồi bảo: "Ông Tân Dân đi Sơn La chưa về, nhưng có thư
gửi ông để ở trong nhà. Mời ông vào gặp bà chủ". Phong đi theo người bồi
vào nhà, thấy nhà cửa, đồ đặc sang trọng, bài trí rất có gu. Phong nghĩ thầm:
"Lão này đểu. Thế mà cứ giả nghèo giả khổ. Lúc nào cũng vay tiền
mình". Ngồi một lát, thấy có tiếng dép loẹt quẹt rồi một thiếu phụ trạc ba
mươi tuổi đi ra. Phong đứng dậy chào, thấy thiếu phụ đẹp rất đài các. Thiếu phụ
bảo: "Chào ông Phong. Tôi là Thiều Hoa. Ông nhà tôi có thư gửi ông".
Hai người cùng ngồi, nói dăm câu chuyện bâng quơ, đại để như chuyện thời tiết,
giá cả. Phong thấy Thiều Hoa lịch lãm, trong lòng thích lắm. Thiều Hoa khép vạt
áo bảo: "Ông đọc thư đi". Nói xong mỉm cười. Phong cầm thư bảo:
"Xin lỗi bà". Thư viết:
"Kính gửi ông Phong, bạn armour của tôi. Tôi đi Sơn La
từ hôm 16 tháng Juillet. Việc bán hàng cho Cầm Vĩnh An đã đâu vào đấy, chỉ chờ
hàng lên là lấy tiền. Phiền ông lo giúp việc đưa hàng lên sớm ngày nào hay ngày
ấy. Nếu cần thì ông lấy mấy tên người nhà của tôi đi theo. Với trí mẫn tiệp và
sự tháo vát của ông, tôi tin vạn sự như ý. Bệnh thấp khớp khiến tôi không về lo
việc cùng ông được. Mong gặp ông ở Sơn La. Chúc ông với gia quyến bình an. Rất
kính trọng ông. Ký tên: Tân Dân".
Phong đọc thư xong, cười nhạt. Thiều Hoa hỏi: "Thưa ông
Phong, ông thấy công việc ra sao?". Phong bảo: "Thưa bà, xin bà đừng
bận tâm, chồng bà là một thiên tài". Thiều Hoa đỏ mặt: "Ông quá khen,
nhiều khi tôi thấy nhà tôi ích kỷ ghê gớm". Phong cười: "Ðấy cũng là
một tính cách thiên tài". Thiều Hoa bảo: "Nhà tôi rất khen ông".
Phong hỏi: "Thưa bà, về mặt nào?". Thiều Hoa bảo: "Nhà tôi bảo
ông là một gentleman". Phong bảo: "Thưa bà, tôi muốn mời bà một bữa
cơm nhạt ở phố Hàng Buồm. Nếu bà từ chối thì tôi không xứng với lời khen ấy".
Thiều Hoa lưỡng lự rồi gật đầu.
Phong về nhà (Phong có một nhà riêng ngoài phố) nghĩ ngợi:
"Lão Tân Dân đểu thật, vốn mình bỏ ra, bao nhiêu công việc vất vả cũng
mình, lão ấy chỉ ngồi hưởng. Ðược, xem lão ấy hưởng những gì". Bèn đứng dậy,
gọi xe tay bảo đưa đến Hàng Buồm đặt tiệc. Ðến hiệu cao lâu, Phong gọi lão hoa
kiều Vương Bình đến bảo: "Ngộ làm cho tôi một bữa ăn đặc biệt hai người.
Cho nhiều thuốc kích dục vào". Vương Bình gật đầu.
Buổi chiều, Phong đến đón Thiều Hoa. Hai người ăn uống vui vẻ,
đầu tiên giữ ý, về sau thuốc ngấm, cứ kề vai nhau lơi lả. Phong dìu Thiều Hoa
vào buồng. Lão Vương Bình đóng cửa ngồi canh. Sau lần ấy, họ còn đi lại với
nhau vài lần nữa. Thiều Hoa gặp Phong trẻ trung, thật như đại hạn gặp mưa rào.
Hai người thề thốt sẽ sống với nhau.
Ðến ngày hẹn, Phong ra bến sông Cái nhận hàng rồi đi Sơn La.
VIII
Ðoàn xe ngựa thồ muối đi hơn nữa tháng mới đến Sơn La. Nhà Cầm
Vĩnh An ở dốc Bản Mạt, nhà quan mà cũng chẳng khác gì nhà những người Thái
khác, được cái to hơn, gỗ tốt hơn. Ông Tân Dân giới thiệu Cầm Vĩnh An với
Phong, An chẳng tỏ vẻ gì ra mặt. Phong liếc nhìn, thấy An tướng ngũ đoản, da dẻ
hồng hào, mi mắt sùm sụp, điệu bộ chậm chạp, có vẻ như người suy nghĩ chậm.
Phong gầy rộc đi sau chuyến đi vất vả. Thấy ông Tân Dân ngày nào cũng ba bữa rượu
rồi vác súng đi săn, ngồi tán nhảm, thì bực lắm. Ông Tân Dân bảo: "Tôi biết
chú vất vả, chuyến này thì chú công đầu". Phong chẳng nói năng gì, lát sau
hỏi xin Cầm Vĩnh An ít rượu mật gấu để bóp chân tay.
An hỏi: "Có bao nhiêu muối?". Phong bảo: "Tám
tấn". Ông Tân Dân giãy nãy: "Chết, ta thỏa thuận với nhau những hai
mươi tấn cơ mà". An bảo: "Người Kinh các ông nói một đằng làm một nẻo?".
Phong bảo: "Tôi giao đợt đầu tám tấn, giao đến đâu lấy tiền đến đấy, sao bảo
nói một đằng làm một nẻo?". An bảo: "Ông Tân Dân đã lấy tiền cả hai
mươi tấn". Ông Tân Dân bảo: "Tôi lấy tiền trước, trích phần lãi để
mua thuốc phiện mang về Hà Nội". Phong bảo: "Tôi chẳng chơi. Nhà nước
cấm buôn thuốc phiện, khéo mà tù. Ông chỉ nên lấy số lãi của ông mà mua
thôi". Ông Tân Dân bảo: "Gay thật, tôi trót mua rồi thì sao?".
Phong bảo: "Không sao cả, ông ghi cho tôi cái văn tự nợ, có quan tri châu ở
đây đứng làm chứng". An bảo: "Phải". Ông Tân Dân tái mặt.
Buổi chiều hôm ấy oi bức. Ông Tân Dân phải hoàn lại số tiền
mười hai tấn muối chưa lấy cho Cầm Vĩnh An rồi ghi văn tự nợ với Phong. Phong bắt
ghi rõ thời hạn trả tiền là một tháng, nếu không thì gán nhà riêng. Thuốc phiện
trót mua rồi, ông Tân Dân cực chẳng đã phải chịu.
Sáng hôm sau, ông Tân Dân vội vã thu xếp về xuôi, bảo Phong
cùng đi với mình. Phong bảo: "Ông đi trước đi. Tôi phải ở lại ít ngày mới
hoàn sức được". Cầm Vĩnh An bày tiệc tiễn đưa. Phong kêu mệt nằm trong buồn
ngủ.
Ông Tân Dân đi rồi, Phong nhỏm dậy, lấy ra hai chục vuông vải
đen, ba chục vuông vải đỏ nói với Cầm Vĩnh An: "Tôi được hân hạnh biết
quan tri châu. Hôm qua còn mệt dâng quà biếu bất tiện, hôm nay mới có cơ hội".
An gật đầu. Phong lại nói: "Số muối ước định với quan tri châu là hai mươi
tấn, việc này không làm đơm sai, ba ngày nữa số muốn còn lại sẽ lên đến
nơi". An cũng gật đầu. Phong lại nói: "Khi muối đến nơi, chỉ lấy tiền
mười tấn, còn hai tấn xin biếu để nhà ăn dần". An cũng gật đầu. Phong lại
nói: "Tôi làm ăn với ông Tân Dân nhưng coi như kẻ thù. Ông Tân Dân mang
thuốc phiện là việc không hay, xin quan tri châu nên báo với nhà chức
trách". An cũng gật đầu.
Hôm sau, Cầm Vĩnh An cưỡi ngựa đi sớm. Buổi chiều An về bảo
Phong: "Ông Tân Dân đi đến Yên Châu thì bị tóm rồi". Hai người cùng
cười. An lấy ra một túi bạc trắng bảo Phong: "Ðây là tiền thưởng".
Phong bảo: "Quan tri châu chia làm ba phần. Một phần để phụ nữ trong nhà sắm
quần áo mới". An bảo: "Nhà tôi nhiều đàn bà lắm". Phong bảo:"Thế
thì chia bốn".
Ngày hôm sau, đoàn ngựa thồ chở số muối còn lại đến nơi,
Phong ra xem xét, thấy không thất thoát gì, mừng lắm, thưởng hậu hĩnh cho bọn
phu áp tải. Cầm Vĩnh An hài lòng, tiễn Phong ra về bằng một bữa tiệc rất to, thịt
một con trâu. Trong bữa tiệc, An nèo Phong ăn món nậm pịa (giống như phèo trâu
). Phong ăn nhưng ngậm trong mồm rồi ra đầu quản nhổ toẹt xuống sàn.
IX
Về Hà Nội, Phong báo cho Thiều Hoa biết việc ông Tân Dân bị
bắt. Thiều Hoa hỏi: "Liệu tù bao nhiêu năm?". Phong bảo: "Cầm
Vĩnh An hứa không dưới mười năm". Thiều Hoa bảo: "Ra tù chết là vừa".
Phong về Kẻ Noi bàn với cô Lan việc cưới Thiều Hoa. Cô Lan tức
lắm, nhưng biết Phong nhẫn tâm, lắm thủ đoạn, nếu có gây sự thì chỉ thiệt mình,
vì vậy đành nín nhịn. Ðám cưới Phong với Thiều Hoa rất long trọng. Phong bán cơ
ngơi của ông Tân Dân, sau khi ông Tân Dân bị tuyên án vỡ nợ và bị xử mười năm
tù. Thiều Hoa có một đứa con với ông Tân Dân, thằng bé tên là Hạnh, đầu to tướng,
có tật ở chân, đi đứng cứ nhảy như con cào cào.
Bấy giờ cô Lan đẻ thêm một đứa con gái nữa, đặt tên là Cúc.
Còn Huệ, Phong đưa ra Hà Nội ở, sau này lấy chồng tên là Ðiềm. Ðiềm là họa sĩ
chuyên vẽ minh họa cho tờ báo mà Phong hùn vốn. Cha mẹ Ðiềm làm nghề bán tạp
hóa.
Rằm tháng bảy, Phong đưa Thiều Hoa về Kẻ Noi làm sinh nhật
năm mươi tuổi. Phong bàn với cô Lan và Thiều Hoa làm cỗ to mời khách. Hôm ấy
trăng sáng, Phong trải chiếu hoa ngồi bên hè nhẩn nha uống nước nụ vãi. Bà Cẩm
nằm võng ru con bé Cúc, ru rằng:
"Ông giăng kia ông ở trên trời
Hỏi ông có biết sự đời cho chăng?
Sự đời nhít nhít nhăng nhăng
Nghe ra chẳng biết mà răng nực cười..."
Dưới nhà ngang, cô Lan đứng chỉ bảo những người trong họ đến
làm giúp. Bà Cẩm lại ru, Ru rằng:
"Cái cô đi đón cơn mưa
Tối tăm mù mịt, ai đưa cô về?
Cô về thăm quán cùng quê
Thăm cha thăm mẹ, cô về thăm ai..."
Phong bảo: "Mười năm nữa, giời cho ta sống, làm ăn được,
ta lên thượng thọ sẽ khao cả làng". Thiều Hoa bảo: "Gớm! Cứ ăn chơi lắm
thì liệu có sống được năm năm không?". Bà Cẩm lại ru. Ru rằng:
"Làm giai cho đáng nên giai
Phú Xuân cũng trãi, Ðồng Nai cũng từng"
Phong hỏi bà Cẩm: "Cái con bé đang vặt lông gà kia tên
là gì, con nhà ai?". Bà Cẩm bảo: "Ðấy là cái Chiêm, con ông
Mùa". Phong hỏi: "Có phải ông Mùa hồi trước vẫn cõng tôi ra đê xem diều
không?" Bà Cẩm bảo: "Phải". Phong hỏi: "Ông Mùa dạo này thế
nào?". Bà Cẩm bảo: "Ông Mùa đông con, cơ cực lắm. Ðậu, tháng ba, ốm
suýt chết". Phong nói với con rể: "Mày là họa sĩ, mày thấy con bé
Chiêm có đáng là hoa hậu của quê tao không?" Ðiềm bảo:"Con thấy bình
thường". Phong bảo: "Mày không biết nhìn. Mày chỉ thấy quần áo. Ðấy
là vì mày kém từng trải". Ðiềm gật gù: "Con chịu bố". Thiều Hoa
bảo: "Hai bố con, chuyện ấy chẳng ai kém ai".
Ngày hôm sau, khách ở Hà Nội về hơn ba chục vị. Ô tô đậu kín
một đoạn đê. Có các quan chức, nhà văn, nhà báo, nhà buôn. Một số bà vợ cũng đi
theo chồng. Lễ vật bày kín trên tấm sập gụ kê giữa nhà thờ. Phong ra tận cổng
đóng khách. Thiều Hoa lộng lẫy đứng bên. Cô Lan tất bật chỉ bảo công việc bếp
núc.
Khoảng gần trưa, cánh hương lý trong làng đến chào. Cũng tới
hơn hai chục người. Phong mời cả vào trong nhà tiền tế, pháo nổ ầm ĩ.
Ông Tô Phương, nhà buôn, đứng lên thay mặt quan khách chúc mừng.
Võ tay ran lên. Phong bắt tay ông Tô Phương. bảo: "Cám ơn ông, cám ơn chư
vị. Ðứng ở nhà mình, xung quanh có vợ con, hàng xóm, bạn bè, uống một cốc rượu
cất bằng thứ gạo cấy trên mảnh ruộng nhà mình, thế là sướng, dẫu rằng biết đời
cũng là phù du". Mọi người gật đầu. Ăn uống đến hơn ba tiếng mới xong. Sau
tiệc mặn là bánh ga-tô, trên đĩa bánh nào cũng có chữ Phạm Ngọc Phong bằng bơ.
Mấy ông ký lục trong làng dùng tay nhón bánh bỏ vào mồm, dây bơ ra cả ngón tay,
thấy bẩn lại bôi xuống chiếu.
Sau tiệc, Phong cho Thiều Hoa ra Hà Nội trước, còn mình ở lại
Kẻ Noi nghỉ ba tháng. Thời gian này Phong đi thăm thú trong làng, thấy có một số
nhà giàu mới lên nhưng cũng có nhiều nhà nghèo lắm. Nhìn chung, tất cả là sự
lam lũ nhếch nhác bao trùm. Có hôm Phong lên bờ đê hóng mát, nằm dài trên bãi cỏ
xanh mà nhìn trời cao, thấy những cánh cò thấp thoáng bay về phía xa.
Một hôm, Phong đang ngồi trên đê thì thấy một đám xúm đông
xúm đỏ. Ðến gần, thấy ông lão xẩm kéo nhị và đứa bé con đang hát. Phong lắng
nghe, thấy lời lẽ mơ hồ nói về nhân, hiếu, lễ, nghĩa. Bên cạnh, có một anh ngồi
nặn những con giống tò he xanh đỏ trên mẹt thúng với nắm bột nếp, nặn cả những
anh hùng ngày xưa, vị nào cũng quắc thước. Phong thấy cô Chiêm đứng xem, gánh cỏ
đằng sau, mắt long lanh sáng, đôi môi cắn chỉ nhay cọng đòng đòng, những giọt mồ
hôi đọng ở hai bên thái dương.
Ði về, Lan hỏi Phong: "Ông sao buồn thế? Hay là tương
tư con bé nào rồi?". Phong bảo: "Tôi thích con bé Chiêm quá". Cô
Lan bảo:"Ðể tôi hỏi làm vợ bé cho ông. Con bé chịu khó. Tôi cũng mến
nó". Phong bảo: "Tôi đội ơn bà". Cô Lan bảo: "Ơn huệ gì.
Ông tuổi Dần, ông đã để ý đến ai thì trước sau gì ông chẳng ăn thịt người
ta". Vài ngày sau cô Lan cho mối đến nhà ông Mùa đánh tiếng. Ông Mùa sợ lắm.
Cô Chiêm giãy nảy, dọa đi tự vẫn. Phong thấy không ổn, mắng rằng: "Thân lừa
ưa nặng, ông hỏi han tử tế không xong thì cho cả họ nhà mày khốn nạn". Ông
Mùa ra sức ép con, họ hàng xúm vào dỗ dành. Cuối cùng cô Chiêm phải chịu. Ðám
cưới tổ chức linh đình, cô Chiêm đi về nhà chồng như người mất hồn. Vài năm sau
cô Chiêm đẻ ra hai đứa con trai, đứa đầu đặt tên là Phạm Ngọc Phúc, đứa sau đặt
tên là Phạm Ngọc Tâm.
X
Một thời gian dài, Phong ở Kẻ Noi, công việc ngoài phố giao
cho Thiều Hoa và Ðiềm quản lý. Một hôm Thiều Hoa bảo Phong: "Có tay nhà
thơ bán tập bản thảo hay hay, tôi định ghi tên của ông rồi cho xuất bản".
Phong trừng mắt bảo: "Nhảm nhí! Rõ chuyện đàn bà. Danh hiệu nhà thơ là thứ
danh hiệu nỡm người bạc phúc. Thơ chỉ là thứ du dương bất lực. Khi nào nó vui
hơn hớn thì chẳng ra gì". Thiều Hoa hỏi: "Thế tôi bảo nó chữa lại rồi
ghi tên tôi được không?". Phong bảo: "Ðàn bà không có thơ đâu. Thơ là
những tâm sự lớn. Ðàn bà thì tâm sự gì. Thơ phải cao cả. Mỗi tháng các bà hành
kinh một lần thì cao cả gì". Thiều Hoa đỏ mặt. Chuyện này bỏ qua, không
nói nữa.
Một hôm, trên tờ báo mà Phong hùn vốn có bức tranh vẽ một
ông bị vợ cắm cái sừng hươu lên đầu, khách đi vào treo mũ lên đấy, khuôn mặt
người này trông rất giống Phong. Phong xem báo, dò hỏi xem ai vẽ tranh. Nhân
viên trong báo chối quanh, nói là không biết. Phong bực mình, dọa đuổi cổ viên
trị sự. Người này thú thật có kẻ đến đưa tranh cho in, hứa thưởng cho tiền.
Phong hỏi: "Chuyện tôi mọc sừng có à?". Người này bảo: "Nghe
phong phanh khi ông ở quê, cậu Ðiềm với bà Thiều Hoa thân mật lắm". Phong
cười nhạt bảo: "Cám ơn ông. Ông về làm việc đi. Lần sau nhớ phải vì lợi
ích của chủ. Không nhớ điều ấy thì đừng làm báo". Người này băn khoăn:
"Tôi tưởng báo chí chỉ phụng sự tự do, bình đẳng, bác ái". Phong bảo:
"Ông hay đùa nhỉ. Mời ông đi ra, tôi mà cáu lên thì ông ăn cứt".
Phong về nhà, vô cớ đập tan cái gương treo tường. Thiều Hoa
hỏi: "Ông chán cái mặt ông à?". Phong không trả lời. Thiều Hoa bảo:
"Ông mệt rồi, nên nghỉ đi". Phong bảo: "Mai tôi về quê".
Hôm sau trời mưa to, bong bóng nước nổi lềnh bềnh trước hiên
nhà. Phong ngồi gập chiếc thuyền giấy thả theo dòng nước. Bỗng đứng dậy, đòi đi
về quê ngay giữa lúc mưa. Thiều Hoa và Ðiềm ngăn lại không được.
Phong lấy ô che đầu đi bộ ra đường. Một lúc ô ướt, nước thấm
vào người. Phong tức mình vất cả ô đi. Càng ngày mưa càng to, Phong cứ đầu trần
đi giữa lòng đường. Một chiếc xích lô đi ngang qua kêu "Úp, ếp!".
Phong quay lại, không gọi cổng mà lấy chìa khóa riêng mở cửa
vào nhà. Thiều Hoa và Ðiềm đang nằm hú hí với nhau, thấy Phong về, mặt cắt
không còn hạt máu.
Phong bắt Thiều Hoa ngồi rồi cũng ngồi vào ghế. Ðiềm run như
rẽ, đứng ở trước mặt. Phong hỏi: "Hai người ngủ với nhau mấy lần rồi?:.
Thiều Hoa bảo: "Thưa, sáu lần". Ðiềm bảo: "Một lần ở vườn hoa
Bôn-bo là bảy". Thiều Hoa bảo: "Lần ấy vội vàng thì tính làm
gì". Phong bảo: "Bảy lần hay bảy bảy lần? Thằng Ðiềm, tao nuôi dạy
mày mà mày trả hiếu thế à? Mày quỳ xuống, liếm chân vợ tao với tao không thì
mày chết".
Ðiềm quỳ xuống đất, Thiều Hoa rụt chân vào, liếc mắt thấy
Phong trừng mắt lại đưa chân ra. Ðiềm đưa tay đỡ chân Thiều Hoa đưa lên ngang
miệng rồi bò sang phía chân Phong. Phong đạp chiếc giầy bết bùn vào giữa mặt Ðiềm
rồi bảo: "Cút đi".
Phong bảo Thiều Hoa: "Thằng hèn như thế mà đi hiến thân
cho nó". Nói xong lên gác, nằm lăn ra, úp mặt vào gối mà khóc. Chiều hôm ấy
sốt li bì. Thiều Hoa một lòng săn sóc Phong, ngày đêm tận tụy bên cạnh không
lúc nào rời. Ðược nữa tháng thì Phong khỏe lại, trở nên ít nói, tính tình thay
đổi, cư xử với mọi người hết sức lạnh lùng.
XI
Sau đợt ốm, Phong thường ngồi nhà tư lự. Một hôm bà Vân bán
hàng khô ở chợ Ðồng Xuân đến thăm, biếu Phong hai cân mứt sen với mấy lạng chè.
Phong hỏi: "Chợ búa dạo này thế nào?". Bà Vân bảo: "Thời khó
khăn, chúng em làm ăn cơ cực lắm". Phong bảo: "tiền bạc không biết
thương người có tâm". Bà Vân bảo: "Em muốn giật nóng ông bà món tiền,
định liều buôn chuyến cánh kiến, có người đặt hàng, nhưng em không có đủ tiền".
Phong hỏi: "Bà vay bao nhiêu? Bao giờ trả?". Bà Vân bảo: "Vay một
tháng, lãi mười phân". Phong bảo: "Dạo này tôi cũng cạn tiền. Thôi được".
Rồi thở dài: "Tôi không thích phụ nữ lăn lộn kiếm sống. Phụ nữ phải lành lặn,
sạch sẽ". Bà Vân bảo: "Ôi giời, em cũng biết thế, nhưng không lăn lộn
thì lấy gì mà ăn. Ông mà cầm quyền thì bọn chúng em được nhờ". Phong bảo:
"Chính trị rặt trò mờ ám, bỉ ổi". Bà Vân bảo: "Có bà Tôn Nữ
Phương ở Huế ra chơi đang ở nhà em, bà Phương giỏi tướng số, bói toán, để em
đưa đến xem hầu ông bà".
Hôm sau bà Vân đưa đến một bà già mặc áo dài màu mỡ gà, trên
ngực áo có thêu hoa. Bà Vân bảo: "Ðây là bà Phương, người trong hoàng tộc".
Phong gọi Thiều Hoa ra tiếp. Bà Phương bảo: "Xem cho ai trước?".
Phong bảo: "Xem nhà tôi trước". Bà Phương ngắm nghía Thiều Hoa, bảo:
"Bà vén tóc mai lên xem". Lại bảo: "Bà cho tôi xem tai phải".
Lại bảo: "Bà đứng lên đi đi lại lại". Nhìn ngắm một lúc rồi nói:
"Thưa bà, bà cốt cách sang quý, mông to, đầu nhỏ, đây là tướng bậc mệnh phụ
phu nhân, từ bé đến lớn không vất vả gì, đi đâu cũng được mọi người yêu kính.
Bà hai đời chồng. Miệng cười tươi thắm là chuyện thị phi có nhiều. Nhưng dù có
tội vẫn được chồng tha. Trên trán có vệt u tối, nhân trung méo xệch, tháng này
đại hạn, sợ rằng khó toàn tính mạng". Thiều Hoa giật mình, mặt tái đi, vội
hỏi: "Liệu có cách nào giải hạn được không?". Bà Phương bảo:
"Thiên cơ bí mật. Biết nói ra sao. Số đã thế nào. Phải ai nấy chịu".
Bà Phương bảo Phong: "Ông cho tôi xem tay trái". Lại
bảo: "Ông đứng lên đi đi lại lại". Rồi bảo: "Ông là người cơ
mưu, gian hùng, nhưng lòng rộng, trọng nghĩa khinh tài, cả đời không chịu thiếu
thốn tiền nong, vinh hoa phú quý đủ cả. Cái gì ông cũng tinh tế. Ông là hổ
vàng, người đời theo ông còn mệt. Tháng này ông cũng có hạn, xin ông giữ
mình".
Phong gật đầu, cũng không hỏi thêm. Sau đó pha trà, chuyển
sang nói về Kinh Dịch. Phong hỏi: "Dịch chủ bốc phệ. Ðiều ấy thế
nào?" Bà Phương bảo: "Ðúng đấy. Nhưng xem Kinh Dịch thoát được thì
hóa thành thần, không thoát thì hóa ma quỉ. Trong vạn người, có khi cũng không
có thần, chỉ có ma quỉ". Phong thấy bà Phương nói năng lưu loát mới hỏi:
"Hồi trước bà có học hành gì không?". Bà Phương bảo: "Cũng có học
hành đôi chút. Sống ở kinh đô, người tài có nhiều, cũng có cái may, nhưng mà họa
nhiều hơn". Phong gật đầu, giữ bà Phương lại ăn cơm, sau đó biếu một số tiền
đi đường.
Thiều Hoa từ hôm ấy lo lắng, đứng ngồi không yên. Phong bảo:
"Bói toán là trò nhảm nhí. Nghĩ ngợi làm gì". Thiều Hoa bảo:
"Tôi sợ lắm. Tôi nghe tin lão Tân Dân mới ra tù. Lão ấy nham hiểm, xin ông
cẩn thận". Phong hỏi: "Ai bảo Tân Dân ra tù?". Thiều Hoa bảo:
"Ðêm qua tôi nằm mơ thấy lão Tân Dân về gọi thằng Hạnh. Lúc ấy nữa đêm, thấy
lão Tân Dân đưa cho thằng Hạnh một thùng sắt tây qua phía hàng rào". Phong
bảo: "Mộng mị vớ vẩn". Nói thế nhưng Phong cũng đi xuống nhà ngang,
thấy thằng Hạnh đang ngồi trên ghế ngủ gật hệt như mọi ngày, cái đầu to tướng gục
ở trước ngực, cái chân què vắt đằng sau, Phong yên tâm đi lên nhà.
Ðêm ấy, Phong đang ngủ say bỗng nghe tiếng kêu. Mở mắt thấy
lửa lem lém. Phong đạp cửa, thấy cửa khóa chặt. Sợ quá, Phong phá cửa sổ lao
ra, bỗng thấy có một bóng đen nhảy múa như con cào cào, tay cầm can xăng tưới
khắp nơi. Nhận ra thằng Hạnh, Phong nhảy bổ đến đè ra bóp cổ. Lửa cháy dữ dội,
rát bỏng cả người. Phong bóp chặt cổ thằng bé đến lúc thấy hai mắt nó lồi ra rồi
mới buông tay. Phong đứng lên, trông thấy cả căn nhà hai tầng đang cháy bùng
bùng. Phong ném xác thằng Hạnh vào lửa rồi chạy ra ngoài thì bị một vật nặng
giáng vào đầu, ngã lăn ra, mê man không biết tí gì.
XII
Chuyện lão Tân Dân ra tù, đốt nhà Phong để trả thù ầm ĩ cả
lên. Nghe nói lão Tân Dân sau đó trốn sang Cao Miên. Thiều Hoa ở trên gác hai,
không xuống được, bị chết thiêu. Phong bị bỏng sau lưng, phải nằm chữa bệnh, rất
khổ sở.
Bấy giờ ở Kẻ Noi bà Cẩm đã chết. Cô Lan thấy Phong ít về quê
nên thậm thụt đi lại với lão Trương cũng làm nghề bán thịt. Thấy Phong bị nạn,
cô Lan cũng chẳng ra thăm, chỉ cho người mang tiền và quà ra. Về sau, nghe tin
bệnh Phong nặng lắm, lão Trương ngang nhiên đi lại với cô Lan giữa ban ngày ban
mặt. Ba mẹ con cô Chiêm sống dưới nhà ngang, không dám hé răng nói gì.
Một hôm có người bà con cũng họ Phạm ở Kẻ Noi đến thăm
Phong. Người này bảo: "Họ Phạm thất lộc rồi. Bà Lan với lão Trương chiếm
nhà, lão Trương đã cho dọn đồ đạc sang kê giữa gian tiền tế". Phong vùng dậy,
khạc ra một bãi máu, bảo: "Tôi chưa chết đâu. Họ Phạm mất nhà thế nào được.
Tôi còn thằng Tâm, thằng Phúc cơ mà".
Vài hôm sau, Phong gượng dậy bảo người dìu đến nhà một viên
luật sư quen biết. Ông này du học về, rất thạo pháp luật. Phong vào thấy ông luật
sư đang ngồi tiếp một bà trạc bốn mươi tuổi. Ông luật sư bảo: "Chào ông
Phong. Ông ngồi xơi nước, chờ tôi một lát". Phong gật đầu, ngồi nghe chuyện
của ông luật sư với người đàn bà. Ðại để hai vợ chồng có đứa con trai mười hai
tuổi, thằng bé rất hỗn, người vợ đánh con vô ý quật phải hòn dái thằng bé, thằng
bé chết, người chồng vốn có tư tình với một bà khác, nhân thế kiện vợ giết con.
Người vợ phân bua vô ý đả thương nên con chết, người chồng bác lại, muốn ghép vợ
phải đi tù để ly dị, chia của cải. Người vợ bây giờ tìm đến luật sư giúp đỡ.
Phong nghe chuyện, thấy ông luật sư trích dẫn sách vở, đại để
như điều 216, 217 thì ngán ngẩm, đứng dậy về. Ông luật sư hỏi: "Sao ông lại
về!". Phong bảo: "Tôi có cái nhà ở quê, mấy đứa khốn nạn định chiếm,
muốn nhờ ông can thiệp". Ông luật sư bảo: "Ðược thôi, theo điều
318...". Phong bảo: "Cám ơn ông. Chuyện này không có điều luật nào
đâu. Tôi xử lấy thôi".
Chiều hôm ấy, Phong cho gọi một tên anh chị khét tiếng tên
là Tước sẹo đến bảo: "Việc thế này... thế này... Bao nhiêu tiền?". Tước
sẹo bảo: "Chúng tôi làm việc nghĩa, không mặc cả như bọn tầm thường".
Phong bảo: "Tôi hiểu rồi. Ông cứ cầm tạm ít tiền cho tôi yên lòng. Không
sao đâu. Tiền bạc là một việc, nghĩa cử là một việc, tôi nhầm lẫn thế nào được".
Tước sẹo hài lòng ra về.
Ít bữa sau, lão Trương và cô Lan đang chuẩn bị dọn hàng ở chợ
thì có một bọn người không biết ở đâu kéo đến gây sự. Lúc ấy đã chạng vạng tối.
Bọn người kia xông vào đánh hai người, cô Lan chết ngay, còn lão Trương đưa về
nhà ba hôm sau cũng chết. Khi nhà chức trách đến xem thì bọn người kia đã biến
mất tăm.
Cuối năm ấy, Phong sức yếu nhiều, bèn lần lượt rút vốn buôn
bán ở các nơi về.
XIII
Hai đứa con trai cô Chiêm cách nhau tám tuổi. Thằng Phúc lên
mười, thằng Tâm lên hai. Phong có ý định cho Phúc đi học, bèn về nhà bàn với cô
Chiêm.
Dịp ấy đầu hè, trời nóng như rang đến hơn chục ngày, bỗng
mây vần vũ kéo đến, sấm chớp nhằng nhằng. Thằng Phúc lần đầu được đi xa nhà
thích lắm, cứ sốt ruột hỏi: "Ðợi đến hết mưa thì đến bao giờ?". Cô
Chiêm không muốn cho con đi học, nhưng sợ Phong, không dám nói. Thằng Phúc hỏi:
"Thế tôi đi học ở luôn ngoài Hà Nội à?". Phong bảo: " tao gửi
mày cho ông bạn tao là giáo sư văn chương nuôi dạy". Thằng Phúc đứng lên,
đi khắp các phòng một lượt, lên cả nhà thờ, xuống bếp như muốn ghi nhớ tất cả
những gì dính líu đến kỷ niệm ấu thơ của nó. Sau đó, nó ngồi ở cửa, mắt nhìn
lên trời, ngóng mưa.
Từ phía đằng đông, mây đen kéo đến ùn ùn. Không có tí ti gió
nào. Một vài hạt mưa rất to lộp độp rơi xuống mái ngói. Cô Chiêm đang xếp quần
áo cho Phúc vào cái hòm gỗ trong nhà. Phong ngồi ở trên sập gụ quạt cho thằng
Tâm ngủ. Thằng Phúc reo lên "Mưa đá". Reo xong nó chạy ra ngoài sân.
Bỗng lòe một cái, rồi một tiếng sét long trời lở đất vang lên. Khói ở ngoài sân
bốc lên một đụn đen ngòm khét lẹt. Cô Chiêm và Phong ngã lăn ra, mái ngói xô ầm
ầm.
Lát sau, Phong tỉnh lại, tê dại cả người, thấy cô Chiêm đang
gào khóc bên xác thằng Phúc giữa sân. Mưa như trút, nhưng mùi khét lẹt vẫn nồng
nặc. Thằng Phúc nằm cong queo, người như bị rút hết nước, đầu nó trọc lốc, khô
xém. Một mảng sân gạch Bát Tràng nát vụn.
Phong ốm liệt giường sau khi thằng Phúc bị sét đánh chết.
Phong không ăn uống, người sốt rất cao. Ðang nằm, Phong mơ thấy mình lạc vào địa
ngục. Một cái vạc to lửa cháy bùng bùng, những con quỷ dạ xoa mặt đen tóc dài
đang chụm củi đun. Trong vạc, những người bị xích xiềng rên la thảm thiết. Phong
thấy một người bảo: "Ta là Phạm Ngọc Liên đây". Lại thấy một người bảo:
"Ta là Phạm Ngọc Gia đây". Lại thấy một người bảo: "Ta là Phạm
Ngọc Chiểu đây". Lại thấy mấy người đàn bà bảo: "Ta là Diêu đây, là
Lan đây, là Thiều Hoa đây". Phong giật mình dậy, thấy những người trong giấc
mơ rất giống những người mình vẫn thường gặp, tựa như ông Liên thì giống ông chủ
sự dây thép, ông Gia giống ông luật sư, ông Chiểu giống ông bán báo, cô Lan giống
cô bán gạo, Thiều Hoa giống cô bán đường.
Cô Chiêm bế thằng Tâm ngồi cạnh giường Phong. Phong bảo:
"Mình ơi, thằng Tâm là giọt máu cuối cùng của họ Phạm đấy. Chỉ mong giọt
máu này đỏ chứ không đen như ông cha nó ". Nói xong thì nấc mấy cái rồi
đi. Bấy giờ là giờ Dậu, ngày 13 tháng Ba năm Canh Thìn (1940).
XIV
Bấy giờ ai đến Kẻ Noi, huyện Từ Liêm vẫn thấy ngôi từ đường
của dòng họ Phạm. Nó cứ trơ trơ trước mọi biến động cuộc đời, thời gian có làm
cho nó cũ kỹ, mục nát, hư hỏng đi vài bộ phận nhưng về cơ bản không thay đổi.
Nghe nói về sau cô Chiêm ở vậy nuôi Tâm, hai mẹ con chỉ trồng rau, nuôi lợn,
làm đậu phụ bán. Tâm lớn lên, tự học, đọc nhiều sách vở, nhưng không thi cử hoặc
đi làm gì.
Bà Chiêm mất năm ngoái, tức là năm Bính Dần (1986), thọ chín
mươi tuổi. Mộ bà Chiêm để ở cánh đồng Cổ Cò, mộ hướng về phía sông Hồng, nơi có
một cây gạo cổ thụ đơn độc. Dưới gốc cây, có ba đống mối đứng chụm vào nhau hơi
giống ba ông đầu rau. Ở đấy,
vào mùa nước, người ta đồn Hà Bá với các quân tướng ba ba, thuồng luồng vẫn lên
tụ họp đánh chén, đom đóm thắp đèn sáng rực thâu đêm, ếch kêu ồm ộp lẫn trong
tiếng nhạc nghe như tiếng người nức nở.
Hết
*****
Đọc “Giọt máu” của Nguyễn Huy Thiệp, tôi nhớ về những câu
thơ đã thành câu hát của Nguyễn Bính.
Vì tằm tôi phải chạy dâu
Vì chồng tôi phải qua cầu đắng cay
Chồng tôi thi đỗ khoa này
Bõ công kinh sử từ ngày lấy tôi
Kẻo không rồi chúng bạn cười
Rằng tôi nhan sắc cho người say sưa
Tôi hằng khuyên sớm khuyên trưa
“Anh chưa thi đỗ thì chưa động phòng” (1)
Nguyễn Bính là nhà thơ của nhân dân, thơ ông hồn nhiên và
chân thật mang hồn dân tộc. Những câu thơ trên của ông được rất nhiều người yêu
thích, đồng cảm, và coi là hiển nhiên.
Bởi vì có lẽ phần đông dân ta, từ muôn đời nay, coi cái việc
thi là mục đích nếu không nói là duy nhất thì cũng là tối thượng của việc học.
Anh học cả đời mà thi không đỗ thì không chỉ xã hội chẳng coi anh ra gì, mà vợ
anh - người tần tảo sớm hôm yêu thương chiều chuộng anh, nâng như nâng trứng hứng
như hứng hoa, không cho anh bắt chân động tay vào việc gì, chỉ ăn rồi ra võng nằm
nghêu ngao; người túi bụi tất bật từ lo tiền ngoài xã hội đến lo cơm bưng nước
rót cho anh - cũng chả coi việc học của anh ra gì, thậm chí tước luôn của anh
cái quyền cơ bản và chính đáng của một đức ông chồng.
Và những người vợ ấy, mong ngóng anh đi thi trong “Lều
chõng”, anh chơi cô đầu phố Khâm Thiên thì không sao, nhưng anh phạm huý bị cấm
thi thì coi là đại họa.
Tất cả những điều này, tôi và có lẽ chúng ta luôn coi là
bình thường, thậm chí dường như có đôi chút tự hào về truyền thống học hành thi
cử. Tôi còn nhớ trong một lần đưa các đồng nghiệp Pháp đi tham quan Văn Miếu,
tôi có giới thiệu về hệ thống thi cử của nước ta ngày xưa, các bạn Pháp đùa “ô,
thế xem ra nền dân chủ ở nước mày có từ trước xa ở nước chúng tao, khi mà một
người nghèo có thể thay đổi cuộc đời, và không chỉ thế, còn làm quan to triều
đình nhờ vào việc học hành; còn ở nước tao trong suốt nhiều thế kỷ dài thì
không thể có chuyện đó, nhà giàu cứ hưởng giàu đời này nối đời khác, nhà nghèo
khó mà ngóc đầu lên được”.
Chỉ có Nguyễn Huy Thiệp, bằng con mắt sắc lạnh như dao, đã mổ
vào vết đau dân tộc ấy. Trong “Giọt máu”, một truyện ngắn thời kỳ đầu, ông viết
về một gia đình nhiều đời làm nghề nông và nghề bán thịt lợn ở quê, ăn nên làm
ra giàu có và hiền hoà được cả làng trọng vọng. Hiềm một nỗi chưa có ai học
hành đỗ đạt cho mở mày mở mặt. Vì thế khi có một đứa cháu đich tôn thông minh
đĩnh ngộ hơn người, người ông đã tìm bằng được thầy giỏi cho cháu mình. Đoạn đối
thoại sau đây thật là điển hình (tôi ghi lại theo trí nhớ). Thầy giáo hỏi:
- Ông muốn cho cháu học, thì mục đích của việc học là gì?
- Thưa thầy, tôi dốt nát không biết gì, cứ đem việc mình
quen ra mà so, phàm trong nghề bán thịt lợn, có miếng thịt thăn nạc ngon, có miếng
thịt mỡ, có miếng thịt dọi, có miếng đầu, miếng chân, thì miếng thịt dọi là miếng
vừa miệng, lúc nào cũng bán chạy, chẳng bao giờ lo ế. Vậy nên tôi cũng nhìn việc
học như vậy ạ.
Thầy giáo cười mà nói:
- Ông nói vậy là tôi hiểu rồi, vậy là ông mong cho cháu học
để sau này ra làm quan.
Và người cháu ấy đã được học, đã rất giỏi, và từ đó cả dòng
họ lao vào cảnh tao loạn, tội lỗi, bạc bẽo, oán thù... (2)
Cho đến cuối cùng, sau nhiều đời, một người lẽ mọn có đứa
con trai xinh xắn, đã để con ở làng, sống hiền hòa ở làng, cậu bé học nhiều và
đọc nhiều nhưng không đi thi, tránh xa xã hội phù du, và dòng họ từ sau đó tồn
tại.
Đọc truyện của Nguyễn Huy Thiệp, như vẫn thế, luôn đau. Và mặc
dù chúng ta không thích, không thể chấp nhận, bởi vì có phải ai cũng bị tẩu hoả
nhập ma như gia đình ấy đâu, bởi vì việc học luôn là một điều đáng trân trọng,
nhưng nó làm ta suy nghĩ, và thấy rất đau. Dường như nó là sự đối trọng, để cán
cân đừng nghiêng hẳn về “phe Nguyễn Bính”?
Đi lên bằng việc học chắc hẳn là con đường đi lên đẹp nhất,
nhưng nếu coi đi lên là mục đích của việc học thì đã làm tầm thường việc học mất
rồi.
Tôi chợt nghĩ đến câu nói vui của những đồng nghiệp Châu Âu,
phải chăng trong quá khứ họ đã không thể lấy việc học làm mục đích thay đổi cuộc
đời, nên nhiều người tìm đến việc học chỉ là vì thú vui? Thú vui của việc tìm
hiểu về con người, về cuộc sống, về thế giới, về vũ trụ. Thú vui được ước mơ
bay lên như cánh chim đến nỗi thả mình từ trên tầng cao xuống và rơi, thú vui
được tạo ra ánh sáng.
Phải chăng họ mơ mộng hơn chúng ta, và vì thế sáng tạo hơn
chúng ta?
Ghi chú:
(1) Bài thơ “Thời trước” (1936) của Nguyễn Bính.
(2) Không dám thất lễ, tìm nguyên bản đoạn đối thoại Nguyễn
Huy Thiệp viết
“... Ông Bình Chi rước ông Gia vào nhà, hỏi nguyện vọng. Ông
Gia tự giới thiệu, một điều bẩm, hai điều bẩm, cung kính lắm. Ông Bình Chi hỏi
mục đích học hành của Chiểu. Ông Gia chẳng biết trả lời ra sao, chỉ nói: “Tôi
thấy văn chương có cái gì từa tựa lẽ phải. Muốn cho cháu học thầy vì thế”. Ông
Bình Chi bảo: “Văn chương có nhiều thứ lắm. Có thứ văn chương hành nghề kiếm sống.
Có thứ văn chương sửa mình. Có thứ văn chương trốn đời, trốn việc. Lại có thứ
văn chương làm loạn”. Ông Gia bảo: “Tôi hiểu rồi. Tôi là nghề đồ tể, tôi biết.
Cũng như có thịt mông, thịt thủ, thịt sấn, thịt dọi, Nhưng cũng là thịt cả
thôi”. Ông Bình Chi bảo: “Ðúng đấy. Thế ông định cho cháu học thứ văn chương
nào?”. Ông Gia bảo: “Tôi suy rằng thịt dọi là thứ vừa phải, nhiều người mua, chẳng
bao giờ ế. Vậy có thứ văn chương nào tương tự như thế không, chỉ vừa phải, nhiều
người theo thì cho cháu học”. Ông Bình Chi bảo: “Tôi hiểu rồi. Ðấy là thứ văn
chương học để làm quan”. Ông Gia vỗ tay reo: “Phải”. Nói xong, gọi Chiểu vào, bảo
lạy ba lạy, lấy ra một xấp lụa Hà Ðông, năm xâu tiền đồng, xin ông Bình Chi
thâu nạp học trò...”.