Truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp
Truyện Thứ Nhất
"Cái tình chi
Mượn màu son phấn ra đi..."
(Lời hát cổ)
Chắc nhiều người còn nhớ trận bão mùa hè năm
1956.
Trận bão ấy, ở bãi Nổi trên sông Cái, sét đánh
cụt ngọn cây muỗm đại thụ. Không biết ai nói trông thấy có đôi giao long cuốn
chặt lấy nhau vẫy vùng làm đục cả một khúc sông. Tạnh mưa, dưới gốc cây muỗm,
có một đứa bé mới sinh đang nằm. Ðứa bé ấy là con thủy thần để lại.
Dân trong vùng gọi đứa bé ấy là Mẹ Cả. Ai nuôi
Mẹ Cả, tôi không biết, nghe phong thanh ông từ đền Tía đón về nuôi. Lại đồn
thím Mòng trên phố chợ đón về nuôi. Lại đồn các xơ trong nhà tu kín đón về, đặt
tên thánh cho Mẹ Cả là Gianna Ðoàn Thị Phượng.
Chuyện Mẹ Cả ám ảnh tôi suốt thời niên thiếu. Một
bận, mẹ tôi đi chợ Xuôi về, kể chuyện Mẹ Cả cứu hai cha con ông Hội bên Ðoài Hạ.
Ông Hội làm nhà, mang đứa con gái tám tuổi đi đào cát. Hố cát khoét hàm ếch, sụt
xuống, vùi lấp cả hai cha con. Mẹ Cả đang bơi trên sông, trông thấy hóa phép
thành con rái cá ra sức đào bới, cứu được hai người.
Một lần, ông Tư Chung đào giếng bảo đào được
cái trống đồng. Phòng văn hóa huyện về xin mang trống đi. Khi qua sông, tự dưng
sấm chớp đùng đùng, sóng to gió lớn cộn lên. Mẹ Cả bơi trên sông bảo: "Vứt
trống xuống đây". Thuyền chòng chành sắp ụp, mọi người đành vứt trống xuống
cho Mẹ Cả. Mẹ Cả ngồi trên mặt trống đánh thùng thùng. Thế là sấm tan mưa tạnh.
Mẹ Cả ôm trống lặn xuống đáy sông.
Chuyện Mẹ Cả lung tung lắm, nửa hư nửa thực. Tuổi
thơ của tôi u buồn và bề bộn việc, mà việc nào cũng vất vả cả, tôi cũng chẳng
có thì giờ để ý đến chuyện người dưng.
Nhà tôi làm ruộng, đào đá ong và làm thêm nghề
lột giang đan mũ. Làm ruộng chẳng nói, ai cũng biết rồi, chẳng dễ dàng gì. Mười
bốn tuổi, tôi là thợ cày chủ lực trong hợp tác xã. Bốn giờ sáng, ông đội trưởng
đội cày gọi cổng: "Chương ơi, hôm nay cày chân ruộng Gò mả ngụy nhé
!" Thế là tôi bổ dậy, ăn vội ăn vàng bát cơm nguội rồi đi. Trời còn tối,
chuột đồng chạy rào rào trong các vạt ngô ven bãi. Tôi nửa thức nửa ngủ, chân
nam đá chân chiêu, cứ nhằm phía quầng điện sáng thị xã mà đánh trâu đi. Chân ruộng
Gò mả ngụy ở đó. Ðây là chân ruộng xấu nhất cánh đồng, đất cằn bạc phếch bạc
phơ, thỉnh thoảng lại có đá ngầm. Tôi cày một mạch đến trưa, thấy đứng bóng thì
tháo trâu về. Mẹ tôi bảo: "Chương ơi, ông Nhiêu dặn đá ong nhà mình tháng
này thiếu tám chục viên, hôm trước bố con mới nộp hơn bốn chục viên". Tôi
vác thuổng đi lên đồi Sậy. Ðá ong đồi Sậy thường chỉ đào được sáu lớp thì hết một
vỉa, đến lớp đất thịt. Ðá ong chỉ đào được những hôm nắng. Hôm mưa thì bùn nhão
nhoét, đỏ cành cạch, đá bở. Thường một buổi chiều cật lực, tôi đào được hai chục
viên. Ông Nhiêu đi qua khen: "Có nghề lắm. Ngày xưa tao đào có lần xắn mẹ
phải ngón chân cái". Ông chìa bàn chân đi dép cao su cho tôi nhìn thấy
ngón chân bị cụt. Chân ông Nhiêu là chân giao chỉ, ngón cái không thẳng mà tõe
hẳn ra. Chân này chắc chẳng giày nào vừa được. Buổi tối, tôi ngồi lột nan.
Giang mua của cánh lái bè, về cạo ra, chặt bỏ mấu, pha nhỏ, cho vào nồi luộc.
Sau đó phải hấp diêm sinh, mang đi phơi khô, bó lại gác lên nóc nhà. Khi làm
thì ngâm vài ngày rồi lấy dao lột. Lột giang phải thật cẩn thận, lột bằng thứ dao đặt ở thợ rèn, lưỡi mỏng dính, đứt tay như chơi. Khi lột lòng, cật để
riêng, sau đó tách thành từng sợi đều đặn thuê trẻ con đan. Mỗi cuộn là hai chục
mét, bán cho người có máy khâu may mũ. Mẹ tôi bảo: "Nghề này chẳng giàu được
đâu nhưng mà có việc quanh năm để trẻ con khỏi nghịch". Những đứa em tôi bốn
tuổi đã biết đan rồi, tay cứ hoay hoáy suốt ngày, đi đâu cũng có bó nam cắp
nách. Gà gáy canh ba tôi mới đi ngủ. Một ngày đầy ắp công việc. Giấc ngủ kéo đến.
Hình ảnh Mẹ Cả chen vào giấc ngủ ở một khe hở nào đó rất nhỏ, không phải thường
xuyên, tôi không chắc một năm đã được một lần.
Một dạo, ông Hai Thìn lúc bấy giờ lên chức chủ
nhiệm hợp tác xã bảo tôi: "Chương này, trai tráng trong làng này đi bộ đội
cả, mày thật thà, tao tính rút mày lên làm kế toán, nhưng mày trình độ văn hóa
kém quá, thôi mày làm ban kiểm tra với bảo vệ vậy". Tôi hỏi: "Làm ban
kiểm tra thì phải làm gì ? Làm bảo vệ thì phải làm gì ?" Ông Hai Thìn bảo:
"Ban kiểm tra là xem chúng tao có ăn bớt ăn xén gì không thì mách ông Phượng
bí thư xã biết. Làm bảo vệ thì hợp tác xã có mấy bãi mía đấy, quân bãi Nổi cứ đến
ăn trộm, mày vác súng ra, thấy đứa nào ăn trộm thì bắn chỉ thiên cho chúng nó sợ".
Tôi bảo: "Ban kiểm tra cháu chẳng làm đâu, hay gì chuyện mách lẻo. Cháu
làm bảo vệ".
Bãi mía ven sông rộng vài chục mẫu, gác cũng
khó. Tôi làm một cái chòi, lên đấy nằm đọc truyện. Ðọc chẳng vào. Tôi ngủ thiếp
đi lúc nào không biết. Có lần mơ thấy đi cày, cày hết chân ruộng Gò mả ngụy thì
đến thị xã, cứ cày mãi, dân thị xã phải dắt nhau chạy. Có lần mơ thấy đào đá ong, xắn
phải ngón chân cái, một lúc sau ngón chân lại tự mọc ra, lại xắn lần nữa, cứ thế
vài chục lần, lần nào cũng đau lắm. Lại có lần mơ thấy lột giang, dao cứa đứt cả
năm ngón tay, khi ăn cơm phải vục mặt xuống như chó. Ðại để giấc mơ của tôi là
thế, toàn những việc làm hàng ngày, chẳng ra gì cả. Ðấy là vì tôi nghèo tưởng
tượng, sau này khôn lớn tôi mới hiểu ra, chứ lúc ấy, mười sáu tuổi, tôi có biết
gì.
Một buổi, trăng rất sáng, tôi nhớ đận ấy vào dịp
tháng Bẩy, tôi đi gác quanh bãi mía. ánh trăng soi rõ mồn một, trông thấy cả những
rễ mía trông hơi giống đầu rễ si đâm tua tủa ở các đốt cây. Rặng mía hắt bóng
thẫm đen chạy dài trên mặt cát đã bị gió làm cho khô se đi nên rất mịn. Thỉnh
thoảng gió đùa rào rào trong bãi mía nghe lạnh cả người. Tôi nghe thấy tiếng
mía đổ, chạy ra, thấy mía nằm ngổn ngang trên cát, trông xót lắm. Tôi điên người,
bắn một phát súng chỉ thiên. Năm, sáu đứa trẻ con trần truồng chạy ào ra. Một đứa
con gái chừng mười hai tuổi có vẻ như tên cầm đầu còn kéo theo cả một cây mía
chạy. Tôi gào lên: "Ðứng lại !" Bọn chúng hoảng hốt lao xuống nước,
cuống cuồng bơi về phái bãi Nổi.
Tôi vứt súng, cởi quần áo, cũng nhảy xuống
sông. Tôi quyết bắt cho được một đứa. Bắt được một đứa sẽ truy cả bọn, công an
vẫn thường làm thế.
Ðứa con gái kéo cây mía bơi tách ra, đập nước
loạn xạ, có vẻ như không biết bơi, lại bơi ngược dòng nên rất chậm. Tôi bơi đuổi
theo. Nó quay lại nhìn tôi, lè lưỡi ra, rất tinh nghịch. Tôi bơi chặn đầu, con
bé té nước vào mặt tôi. Tôi lặn xuống nước, ước lượng khoảng cách để tóm chân
nó. Con bé vùng thoát được. Cứ thế mãi. Con bé bơi ở phía trước, lúc nào cũng
giữ một khoảng cách không xa với tôi. Tới gần nửa tiếng đồng hồ trôi qua mà tôi
không bắt được nó. Tôi bỗng hiểu ra đối thủ của tôi rất sành sông nước, bắt được
không phải chuyện đùa. Con bé lỡm tôi để cho bọn kia trốn thoát. Con bé vừa bơi
vừa trêu. Tôi tức lắm, đập nước sải cánh đuổi theo. Con bé cười khanh khách,
bơi nhanh ra giữa sông. Nó bảo tôi: "Quay về đi, không mất súng thì chết
!" Tôi giật mình, thấy nó nói đúng. Con bé bảo tôi: "Mày không bắt được
tao đâu, Bắt thế nào được Mẹ Cả !" Tôi hoảng hốt, dựng cả tóc gáy. Chẳng lẽ
đây là con gái thủy thần ? Nước tạt cả vào mặt tôi ướt sũng. Tôi thoáng thấy tấm
lưng trần dẻo dai loáng nước quẫy ở trước mặt, loang loáng dưới trăng, Thật
kinh dị, nhưng đẹp lắm. Thoắt nhiên, tất cả biến mất, tôi bỗng trơ ra giữa dòng
sông vắng mênh mông. Tất cả như chẳng hề sảy ra chuyện gì. Dòng sông vẫn cứ như
thế từ lâu lắm rồi, từ hôm qua, hôm kia, từ năm trăm năm trước. Tôi thấy ngượng
ngùng. Nửa đêm, tự dưng lại đi trần truồng bơi trên sông, khua khoắng lên, mà
vì cái gì cơ chứ ? Dăm cây mía có đáng là bao ? Khi thu hoặch, hợp tác xã vứt
đi hàng đống. Hoặc mùa nước, chỉ cần một trận lụt là vứt đi hàng mẫu là thường.
Tôi bỗng thấy buồn, Mặc kệ dòng nước đẩy dạt vào bờ. Hóa ra chẳng phải mất nhiều,
chỉ vài ba cây. Tôi ngồi xuống bẻ một dóng mía ăn. Mía nhạt thếch. Tôi vứt dóng
mía rồi trở về chòi, nằm thao thức đến sáng. tôi cố nhớ lại khuôn mặt Mẹ Cả mà
không nhớ được. Cứ nhắm mắt lại là thấy toàn mặt quen, tựa như bà Hai Khởi vừa
tròn vừa to, mũi trông như vỏ cam sần, hoặc như mặt chị Vĩnh, dài, mà tai tái
như dái trâu, như mặt cô Hỷ, đỏ như tôm luộc, Mặt anh Dư, xương hàm bạnh ra như
hàm ngựa. chẳng có khuôn mặt nào đáng là mặt người. Mặt nào trông cũng thú vật,
đầy nhục cảm, không đểu cáng, dối trá thì cũng nhăn nhúm đau khổ. Tôi tìm một mảnh
gương vỡ soi thử mặt mình. Mảnh gương bé quá, không rõ hết mặt. Chỉ thấy trong
gương một đôi mắt đờ dại nhìn mình như mắt tượng gỗ trên chùa.
Cuối năm ấy, tôi rút khỏi chân bảo vệ, chuyển
sang đội thủy lợi. "Nhất thổ, nhì mộc", công việc sắn mai bốc đất vất
vả nhưng tôi sức trẻ nên cứ phăng phăng. Bẵng đi ba năm, hơn nghìn ngày. Kể đất
tôi vác có khi đắp được một trái núi con. Thế nhưng quê tôi nào đâu có núi non
gì, chỉ bằng phẳng những cánh đồng cằn, những con mương chạy ngang dọc khắp chốn
cùng nơi mà đất vẫn khô nẻ.
Năm 1975, đấy là một năm đáng để quan sát ghi
nhớ.Quê tôi mở hội rất to. Thi bơi chải trên sông, thi vật, đội văn công trên tỉnh
về biểu diễn. Các đô vật ở Ðoài Hạ thắng đậm các đô vật khác trong vùng. Dân
bãi Nổi táo tợn là thế, cử ra bốn đô vật đều bị loại từ vòng đầu. Hạ được bãi Nổi,
Ðoài Hạ được thể. Ðô Thi thúc trống hỏi to: "không có ai vào xới thì tôi lấy
giải về Ðoài Hạ đây này". Trai làng tôi tức lắm, xui tôi vào xới. Thú thực,
tôi không thạo vật, nhưng tôi có sức. Tay tôi đã bám vào đâu thì thật như kìm,
nội công ngoại lực gì tôi không biết, nhưng tôi đã bóp, gạch cũng nát vụn.
Tôi cởi quần áo, Mặc độc cái quần đùi nâu. Mọi
người cười ồ. Người ta giải thích dài dòng rắc rối, đại để tôi muốn giật giải
phải vật với những năm người. Trai làng tôi không chịu cãi nhau om lên, cuối
cùng đi đến thỏa thuận là tôi phải vật thắng hai người khác mới được vật đô Thi
là người đang nhìều điểm nhất.
Ðô Tiến vào xới. Tôi xông vào ngay. Ðô Tiến
cũng khỏe, khoèo chân tôi. Những hơn nghìn ngày lội bùn vác đất nên chân tôi chắc
lắm, cắm xuống như cọc. Ðô Tiến xoay ngang xoay dọc mà tôi vẫn đứng trơ trơ.
Hai tay tôi tóm được hai bả vai đô Tiến, cứ thế bóp. Ðộ ba phút thì đô Tiến đờ
ra, mặt tái nhợt, cứ thế khụyu xuống. Trọng tài tuyên bố tôi thắng cuộc.
Ðến lượt đô Nhiêu. Ðô Nhiêu bé nhỏ, nhanh nhẹn.
Hắn nhảy như con choi choi, luồn lách rất khéo. Chỉ sau vài miếng, tôi biết đô
Nhiêu lập kế lừa tôi, hắn chỉ chờ tôi đứng lệch trọng tâm là phục xuống bốc,
dùng vai gồng ngã. Biết thế, tôi bèn đứng né chân chèo, người hơi ngả ra. Ðô
Nhiêu cúi xuống, luồn đầu vào hai chân tôi, định hất lên, thế võ rất ác. Tôi đổi
chân khép gối lại, dùng hết lực túm hai mạng sườn, bóp mạnh. Ðô Nhiêu oằn oại
như con rắn lớn. Một lúc thấy không quẫy được nữa, tôi mới đặt hắn ngửa ra, vỗ
mạnh vào rốn. Tiếng reo như sấm. Có ai nhét vào tay tôi một đoạn mía ngắn đã tiện
róc rồi. Mội người xúm xít, lấy áo phẩy vào mặt tôi giống như kiểu người ta săn
sóc võ sĩ quyền Anh.
Trống lại nổi lên. Ðô Thi to con, hai mắt như mắt
lợn luộc. Hắn dạo một đường quyền ngắn trông rất đẹp mắt. Nhiều tiếng xuýt xoa.
Tôi cứ lừ lừ đi vào. Ðô Thi đứng trước mặt tôi gườm gườm: "Muốn sống, chịu
thua ngay đi, con ạ !" Tôi bảo: "Dễ thế !" Ðô Thi chửi: "Mẹ
mày ! Giữ lấy cái mũi ! Ông cho mày sặc tiết cho xem !" Hắn lao vào ngay,
đầu gối giơ lên rất nguy hiểm.
Ðến hơn mười phút, Ðô thi không vật được tôi. Hắn
giở thế võ đánh ngầm. Hắn dùng cùi tay, đầu gối đánh tôi. Trận đấu căng thẳng.
Trọng tài là người Ðoài Hạ, đáng lẽ bắt lỗi nhưng cứ lờ đi. Tôi tức lắm vừa đỡ
vừa hỏi: "Vật nhau hay là đánh nhau thế này ?" Ðô Thi bảo: "Mẹ
mày ! Ông đánh cho mày chết mẹ mày đi !" Trống thúc dồn dập, mọi người reo
hò nhưng không có ai đứng ra ngăn cản. Rất nhiều tiếng gào khuyến khích đô Thi:
"Ðánh đi, đánh cho chết mẹ nó đi !" Nỗi căm giận trào lên trong tôi.
Tôi thấy mắt tôi hoa lên, tai tôi ù đi, máu trào mằn mặn trên môi. Ðô Thi nhảy
đá song phi, tôi tránh được, thuận tay bắt được cổ chân. Ðô Thi giằng ra, nhưng
hai tay tôi như hai kìm sắt. Ðô Thi lăn lộn trên sàn. Tiếng gào: "Thua rồi,
thua rồi" ầm ĩ cả lên. Trọng tài bảo tôi vật không đúng luật. Tôi chẳng
nói chẳng rằng, gạt ông ta ra, cứ thế đi đến bàn ôn bọc giải thưởng đi xuống.
có ai vỗ vào vai tôi: "Khá lắm ! Du côn lắm !" Tôi không hiểu nghĩa
hai chữ du côn, chắc tỏ ý khen ngợi.
Ra khỏi xới vật, tôi rẽ vào hàng mua cho các em
gói kẹo, cho mẹ chiếc lược rồi đi tắt đồng, qua bãi về nhà. Ðến sông thì chập
choạng tối. ở khúc quặt, bỗng có tốp người hùng hổ xông ra, đi đầu là đô Thi,
đô Nhiêu, đô Tiến. Ðô Thi bảo: "Muốn sống đứng lại !" Tôi hỏi:
"Cướp đường à ?" Bọn kia không nói năng gì xông vào đánh ngay. Tôi
đánh trả cũng ác, nhưng thân cô, thế núng, lát sau tôi ngất đi. Khi tỉnh lại,
tôi thấy mình nằm trên ổ rơm, người đau ê ẩm. Mẹ tôi hỏi: "Con có đau
không ?" Tôi gật đầu. Mẹ tôi khóc: "Chương ơi, con ra tranh hơn thiên
hạ làm gì ? Mang thân mua vui cho người có nhục không con ?" Tôi âm thầm
khóc, thấy mẹ tôi nói phải. Mẹ tôi bảo: "Hứa với mẹ đi, đừng bao giờ thế
!" Tôi thương mẹ tôi nên hứa, nhưng nghĩ lần sau đi đâu phải dắt theo dao.
Tôi hỏi mẹ tôi: "Ai cứu con ?" Mẹ tôi mỉm cười: "Mẹ Cả cứu".
tôi định hỏi thêm, nhưng mẹ tôi đã ra ngoài, đi sao lá cúc tần sắc cho tôi uống.
Tôi hồi phục sức khẻo rất nhanh, chủ yếu do trẻ
trung, chẳng phải do thuốc. Thuốc có gì đâu, chỉ có lá cúc tần sao khô vừa bóp
vừa uống. Khi đi lại được, ý nghĩ đầu tiên của tôi là vác dao tìm đến đô Thi.
Thế nhưng hợp tác xã cử tôi đi học một lớp nghiệp vụ kế hoạch ở trên thị xã, giấy
báo tập trung gấp quá, tôi đành bỏ dở ý định trả thù.
Lớp học chúng tôi có ba mươi người, học sáu
tháng. Chúng tôi được học các môn chủ nghĩa xã hội khoa học, lịch sử, chính trị
kinh tế học, các nghiệp vụ quản lý kế toán. Lần đầu tiên, tôi biết những danh từ,
khái niệm, thuật ngữ rất lạ. Tôi háo hức vô cùng. Sau vài hôm tôi đau đớn nhận
ra tôi không học được. chữ nghĩa chuội đi, tôi không làm sao phân biệt được các
nguyên tắc nhờ thu nhận trả, các tài khoản, các biểu thống kê, cũng như không
hiểu nổi khái niệm duy tâm, duy vật. Phép biện chứng, theo tôi là sự tiến lên,
bắt chấp khó khăn, đại để giống như giấc mơ của tôi cày Gò mả ngụy. Quy luật phủ
nhận, tôi nghĩ nó giống như trận đòn thù đê tiện của bọn đô Thi, tôi căm ghét
nó, nó thành quy luật thì phải trả thù, phải nện đau hơn nó đã nện mình. Tôi học
lịch sử, hoàn toàn lẫn lộn về cách phân kỳ. Các thầy cô giáo rất ức, bảo tôi
không có khả năng học tập.
Cả lớp không ai thích tôi. Tôi làm mất điểm
thi đua. Tôi lố bịch nữa. Cả lớp không ai ăn mặc như tôi. Họ mặc lối thị xã cả,
đẹp thật, tôi cũng rất thích nhưng vì không tiền đành phải chịu. Tôi mặc quần
nâu, áo xanh trứng sáo. Còn ăn, mọi người ăn chung, tôi nấu ăn riêng. Ăn chung
có mức, tôi ăn tám, chín bát cơm một bữa, ngày ba bữa, mức nào chịu được.
Ở trong lớp, tôi ngồi một xó, tha hồ ngủ gật.
Các thầy cô giáo chán nản, thôi hành hạ tôi, bài kiểm tra nào cũng cho điểm năm
là điểm trung bình.
Gần tan lớp học, trên bỗng cử cô Phượng về dạy
môn kế toán. Cô Phượng học nước ngoài về, tính vui nhộn. Cô mặc quần bò, áo
phông, áo bỏ trong quần, vai đeo túi, trông giống diễn viên điện ảnh.
Trả bài kiểm tra, cô Phượng bỗng hỏi: "Ai
tên là Chương ?" Tôi bảo: "Em đây". Cả lớp cười ồ, vì cô Phượng
trẻ, chỉ bằng tuổi tôi. Cô Phượng nín cười, bảo: "Tôi không hiểu nổi bài
viết của anh. Ðường lối kế toán của anh đặc biệt bí hiểm". Cả lớp lại cười.
Cô Phượng bảo: "Hết giờ mời anh gặp tôi. Tôi sẽ giảng lại cho anh về các
quy luật kinh tế".
Hết giờ buổi chiều, tôi tìm cô Phượng. Người ta
bảo cô vừa phóng xe máy ra sông. Tôi buồn rầu, khoác cái xắc cốt để sách vở, tiền
nong, giấy tờ, bỏ đi lang thang.
Loanh quanh thế nào, tôi vòng ra phía bờ sông,
bỗng thấy cô Phượng đang ngồi một mình, bên cạnh có chiếc xe máy. Quang cảnh
cũng hệt quê tôi, phía trước là sông, phía sau bãi mía.
Tôi đến gần, thấy cô Phượng khóc, hai tay ôm mặt,
bả vai rung rung. Tôi ấp úng chào. Cô Phượng giật mình, ngẩng lên thấy tôi, bèn
giận giữ nói: "Cút đi, cái lũ đàn ông khốn kiếp các anh !" Tôi kinh
hoàng ngơ ngác, chôn chân tại chỗ. Cô Phượng cầm dép ném vào mặt tôi. Dép cao
gót, có đinh, tôi tránh không kịp, mặt bị chảy máu. Máu chảy nhiều quá, tôi ngồi
thụp xuống, hoa cả mắt. Cô Phượng chạy lại, quỳ xuống, gỡ hai tay tôi, hốt hoảng:
"Anh có sao không ? Trời ơi, sao tôi rồi dại thế này ?"
Tôi xuống sông, vã nước rửa vết đau. Cô Phượng
cứ loay hoay bên tôi, rối rít xin lỗi. Tôi cho cô Phượng xem những vết sẹo trên
vai, trên tay mà bọn đô Thi đánh tôi. Tôi bảo: "Không sao cô ạ. Vết thương
như thế có gì". Cô Phượng bảo: "Tôi xin lỗi anh. Tôi gặp chuyện buồn
phiền quá. Tôi không kìm chế được mình".
Cô Phượng lấy bánh mỳ, lấy chuối ép tôi ăn. Cô
Phượng nói: "Anh tha thứ cho. Tôi yêu, tôi bị phản bội. tôi không chịu nổi.
Nếu anh có yêu, anh mới hiểu". Tôi bảo: "Tôi chưa yêu. Nhưng tôi nghĩ
nếu ai phản bội tình yêu thì xấu xa lắm". Cô Phượng cười đau đớn:
"Anh chẳng hiểu gì, kẻ phản bội cũng là người tốt, có điều người ta không
dám hy sinh".
Cô Phượng ngồi, tay bó gối, trông vừa bé nhỏ, vừa
bưồn, lại đẹp nữa. trong tôi trào lên cảm giác thương xót, tựa như thương xót
chính em gái tôi.
Cô Phượng bảo: "Tôi đã không đúng. Người
ta không dám hy sinh vì tôi là phải, tôi là người con gái xấu xí phải không anh
?" Tôi lắc đầu, tôi nghĩ người nào yêu được cô Phượng thật là hạnh phúc.
Tôi bảo cô: "Không phải đâu. Cô đẹp lắm". Cô Phượng cười. Cô cầm cái
xắc cốt của tôi, đập đập: "Anh đựng cái gì trong này thế ?". Tôi ngượng
ngập bảo: "Có sách vở, tiền nong, chứng minh thư, thẻ đoàn". Cô Phượng
bảo: "Anh Chương này, nếu anh yêu, anh có dám hy sinh vì người yêu không
?" Tôi bối rối không biết trả lời ra sao. Cô Phượng bảo: "Thế này
nhé: Nếu tôi yêu anh, anh có dám vứt cái túi này xuống dưới sông không ?"
Tôi gật đầu. Cô Phượng bảo: "Anh vứt đi". Tôi đứng lên, cầm cái xắc cốt
quẳng ra giữa sông. Cái xắc cốt chìm nghỉm. Cô Phượng ngạc nhiên, mặt tái đi:
"Anh có dám phá tan cái hàng rào kia không ?" Tôi lẳng lặng đến hàng
rào bao quanh bãi mía, co đứt dây thép gai, nhổ cọc sắt, uốn cong lại, vứt dưới
chân cô.
Cô Phượng bảo: "Anh lại đây". Cô ôm cổ
tôi, hôn lên môi. Tôi đờ đẫn. Cô Phượng bảo cô rất sung sướng: "Anh biết
không, thế mà tôi đã buồn phiền vì một tên đàn ông ích kỷ. Thật chẳng ra sao
!" Cô Phượng lên xe máy phóng đi, quay lại bảo tôi: "Anh hãy quên những
quy luật kinh tế chết tiệt ấy đi".
Tôi sửng sốt. Cái hôn bất ngờ làm tôi ngây ngất, tôi thấy sung sướng. Cứ thế lội xuống sông, bơi sang bờ bên kia rồi lại bơi về.
Trăng rất sáng, tôi thấy cuộc đời thật đẹp tuyệt vời.
Sau hôm ấy, hai hôm sau giải tán lớp học. Cô
Phượng không đến, nghe nói có việc phải đi Hà Nội. Tôi buồn rầu thu dọn đồ đạc,
chào mọi người rồi đi về làng.
Tôi về làng, được cử làm kế toán trưởng. Ðược một
tháng, ông Hai Thìn bảo: "Mày học hoài cơm". Người ta cách chức tôi,
tôi cũng chẳng lấy thế làm buồn. Tôi trở lại công việc bình thường, công việc của
mười năm trước: Sáng đi cày, chiều đào đá ong, tối lột giang đan mũ. Công việc
nặng nề, nhưng tôi khôn nguôi nhớ về cô Phượng.
Một lần, tôi kiếm cớ lên thị xã, rẽ vào trường
cũ để thăm cô Phượng. Ở đây chẳng còn ai nhận ra tôi. Ông thường trực hỏi:
"Cậu hỏi Phượng nào ? Trường có nhiều Phượng lắm: Trần Thị Phượng, Quách
Thị Phượng, Lê Thị Phượng. Có cô cũng trạc tuổi cậu, cô ấy đi khỏi trường rồi.
Cô ấy ngày xưa ở nhà tu kín, tên thánh là Gianna Ðoàn Thị Phượng". Tôi giật
mình, nhớ đến giai thoại ngày xưa kể về Mẹ Cả.
Ông thường trực không biết gì thêm. Ðang nghỉ
hè, sân truờng vắng ngắt. Tôi lang thang ở trong thị xã, không biết hỏi ai. Cuối
cùng tôi nảy ra ý định vào nhà tu kín.
Bà Nhất tiếp tôi. Bà đã luống tuổi, có đôi mắt
hết sức u sầu. Bà Nhất bảo: "Gianna Ðoàn Thị Phượng ở nhà tu này từ sáu
đến mười hai tuổi. Cha mẹ cô ta nhờ tôi nuôi dạy". Tôi ngạc nhiên:
"Sao bảo Gianna Ðoàn Thị Phượng là Mẹ Cả, là con gái thủy thần ?" Bà
Nhất bảo: "Cha mẹ Gianna Ðoàn Thị Phượng ngoài Hà Nội. Cô ấy là con riêng
ông Ðoàn Hữu Ngọc, buôn nước mắm". Tôi thẫn thờ buồn bã ra về. Bà Nhất bảo:
"Tôi không biết Mẹ Cả của anh, còn Gianna Ðoàn Thị Phượng là con của Chúa.
Ông Ðoàn Hữu Ngọc gửi con vào trong nhà Chúa như gửi con vào nhà trẻ, nhưng
Chúa không giận. Chúa tha thứ, Chúa vốn nhân từ".
Ðêm ấy, tôi ngồi ngoài hè tường nhà tu kín. Ðường
phố thị xã xe chạy ầm ầm tôi không ngủ được. Sáng sớm hôm sau, tôi xuôi đường
đê tìm đường về đền Tía.
Ðền Tía ngay sông, chênh vênh trên một kè đá
xây cất công phu. Ông từ giữ đền Tía tên Kiệm, làm nghề đánh cá, trạc sáu mươi
tuổi, ở ngay trong đền. Tôi vào trong đền, thấy cá phơi đầy trong sân, Gác cả
trên hai thanh cột quá giang. Ông Kiệm cho tôi nhắm rượu cá nướng. Ông Kiệm bảo:
"Tôi giữ đền này hơn bốn mươi năm, ở một mình, nuôi mỗi con rùa làm bạn".
Ông chỉ cho tôi con rùa buộc dây nằm dưới gậm giường. Tôi hỏi ông về Mẹ Cả. Ông
Kiệm bảo: "Tôi không biết. Nhưng trận bão ấy thì nhớ, sét đánh cụt ngọn
cây muỗm ở trên bãi Nổi, cậu phải về đấy hỏi xem".
Tôi ở chơi với ông Kiệm buổi sáng, dọn giúp chỗ
mái đền dột. Buổi trưa, tôi chào ông Kiệm, tắt đồng đi về bãi Nổi.
Ðường về bãi Nổi đi qua Ðoài Hạ, Tôi hỏi thăm
nhà ông Hội, nghe nói ngày xưa cha con ông được Mẹ Cả cứu. Ông Hội đã già, lẫn
lộn cả. Ông Hội bảo: "Ðào cát. Khoét hàm ếch. Sụt xuống. Nặng lắm, máu ộc
ra..." Hỏi gì cũng chỉ nói từng ấy tiếng. Con trai ông Hội bảo tôi:
"Ông cụ có nhớ gì đâu. Tai điếc ba, bốn năm rồi". Tôi buồn rầu, chào
cha con ông rồi về.
Tôi bơi qua sông, đến bãi Nổi. Cây muỗm đại thụ
bị sét đánh bao nhiêu năm khô xác, dưới gốc cây, bọn trẻ đốt lửa làm thành cái
hốc lõm sâu đen sì. Tôi rẽ vào một túp lều canh lưới cạnh đấy. Tôi ngó vào,
rùng mình thấy trong xó tối có một lão già nằm trên ổ rơm dưới đất. Thấy tôi,
lão già hỏi: "Ðô Thi đấy à ?" Lão già nhỏm lên, tôi kinh hoàng thấy
lão già chẳng khác gì ma quỷ, râu tóc lởm chởm, đôi mắt đục ngầu. Tôi đoán lão
già bị liệt, hai chân teo lại, Lông chân trông như lông lợn. Tôi chào lão già,
ngạc nhiên thấy lão anh minh lạ thường, nói năng rành rọt. Một lúc sau, qua câu
chuyện, tôi biết lão là bố đô Thi ở bên Ðoài Hạ. Lão già bị liệt mấy chục năm rồi,
chỉ nằm một chỗ trông lưới.
Trò chuyện mãi, tôi hỏi lão già về chuyện Mẹ Cả.
Lão già ôm bụng cười lăn lộn, đôi chân liệt bất động trông rất đáng sợ. Tôi
chưa thấy ai khủng khiếp như vậy. Lão già bảo tôi: "Mày có trông thấy cái
nia rách kia không ? Ðôi giao long quấn nhau ở trong ấy đấy..." Lão già lại
cười. Tôi kinh hoàng sợ hãi. Lão già lại bảo: "Hồi ấy tao chưa bị liệt.
Tao bịa ra chuyện Mẹ Cả. Ai cũng tin. Mộ Mẹ Cả kia kìa, mày muốn biết hình Mẹ Cả
đào lên mà xem". Lão già chỉ một nấm đất gần kề gốc muỗm. Tôi lấy chiếc
mai trong lều ra chỗ nấm đất, đào lên. Tôi đào theo kiểu người ta vẫn đào khi bốc
mộ. Ðược hơn một mét, tôi lôi dưới ấy lên một khúc gỗ mục chẳng hình thù gì.
Tôi ngồi rất lâu bên khúc gỗ ấy. Lão già ma quỷ cũng đã thôi cười, bây giờ chắc
ngủ trong lều.
Trước mặt tôi, dòng sông đang thao thiết chảy.
Sông chảy ra biển. Biển rộng vô cùng. Tôi chưa biết biển, mà tôi sông nửa cuộc
đời rồi đấy... Thời gian cũng thao thiết trôi. Chỉ ít năm nữa đến năm 2000...
Tôi đứng lên, đi về nhà. Ngày mai tôi đi ra biển.
Ngoài biển không có thủy thần.
Truyện Thứ Hai
Khi chào mẹ để đi ra biển, lúc ấy nào
tôi có biết rằng biển ở đâu ?
Mẹ tôi bảo: "Chương ơi, thế con bỏ
mẹ đi à ? Bỏ các em con đi à ?" Tôi không trả lời, tôi vụt ra ngõ như chạy.
Tôi biết, nếu tôi dừng lại lúc này thì tôi sẽ không bao giờ đi nữa. Tôi sẽ quay
lại công việc của mười năm trước; tôi sẽ cứ thế cho đến rốt đời: Sáng đi cày,
chiều đào đá ong, tối lột giang đan mũ. Tôi sẽ kéo mòn kiếp sống của tôi như thế.
Như thể bố tôi, như ông Nhiêu, như ông Hai Thìn, như những người dân hiền lành,
lam lũ ở quê hương tôi.
Tôi đi... Tôi nhằm hướng mặt trời mọc
mà đi. Tôi không mang theo một thứ đồ đạc nào cả trên người, trừ con dao sắc lịm
mà tôi cất công sang tận Ðoài Hạ để thửa. Con dao này rèn từ nhíp ô tô, mũi nhọn,
nước thép xanh biếc.
Ý nghĩ về Mẹ Cả, về Gianna Ðoàn Thị
Phượng ám ảnh tôi. Con gái thuỷ thần, nếu tôi tìm được thấy nàng thì tôi sẽ
không hối tiếc gì về cuộc sống. Không hiểu vì sao tôi lại nghĩ rằng nàng ở đấy,
ở ngoài xa kia, ở biển...
Tôi đi qua rất nhiều làng mạc, vừa đi
vừa làm thuê kiếm ăn. Những làng quê mà tôi đi qua đều buồn tẻ tiêu điều. Quanh
quẩn chỉ từng ấy cây: Cây lúa cây ngô, cây khoai lang, vài thứ cây rau quen thuộc.
Quanh quẩn từng ấy công việc: Cày ruộng, cấy hái, vun trồng.
Sáng sáng, tôi tìm đến đứng ở đầu thôn
xóm mà tôi đi qua. Dưới gốc si hoặc cái quán xiêu vẹo, cũng có khi ở một chợ
cóc ven đường. Có nhiều người như tôi, cả đàn ông, cả đang bà. Họ đều là những
người dân quê phiêu tán hoặc những người nghèo trong thôn xóm. Những người thuê
mướn cầm đuốc soi mặt chúng tôi, nắn chân nắn tay từng người. Họ hỏi: "Có
biết làm việc này không ? Làm việc kia không ?" Họ và chúng tôi thỏa thuận
giá cả, thường công lao động một ngày rất thấp, nếu làm thợ đấu thì quy ra thóc
chỉ độ hai cân rưỡi đến ba cân một ngày, thợ cấy ít hơn: Chỉ độ một cân hai đến
một câm tám. Tôi hay nhận những việc ngoài đồng: Cấy, gặt, gieo mạ, bón phân.
Tôi không thích nhận việc trong nhà. Ở ngoài đồng không khí thoáng đãng hơn,
trên đầu tôi là bầu trời tự do, tôi không vướng những mối liên hệ nào đấy đối với
con người. Những người thuê mướn tôi cũng chẳng giàu có gì, họ cũng phải làm quần
quật, đôi khi họ phải nhịn ăn để dành trả công cho thợ.
Không khí u uất, tù đọng của làng quê
làm tôi tái tê cảm giác chua xót. Mọi người rối rít, cuống cuồng để kiếm miếng
ăn. Những định kiến, tập tục thật nặng nề. Tôi đã thấy tinh thần gia trưởng hủy
hoại bao nhiêu số phận con người. Tôi cũng thấy những ngộ nhận giới tính và đạo
đức giết chết vẻ diễm lệ trên các khuôn mặt thiếu nữ. Rất ít thanh niên. Ngoài
đồng chỉ có các ông bà già, phụ nữ và trẻ em thất học làm việc.
Sang tháng ba, công việc đồng áng vãn
bớt, tôi không có việc làm thường xuyên. Có nhiều ngày tôi phải nhịn đói. Tôi
đi trong đám sương mù bàng bạc dọc bờ đê. Những hạt bụi nước li ti giăng ở trước
mặt, ở bên phải, ở bên trái, ở sau lưng. Gió hun hút thổi. "Cái đói cái
rét bằng nhau". Người xưa nói thật chẳng ngoa chút nào. Một lần tôi nhìn
thấy có ông lão ăn mày chết đói ở bên vệ đê. Một nỗi lo sợ mơ hồ thoáng dậy
trong tôi. Tôi bắt đầu nghĩ đến cái chết, điều này trước đây chưa bao giờ tôi
nghĩ đến. Ðói. Rét. Nỗi cô đơn như gió quất vào mặt. Lòng tôi cồn cào, đau đáu
một nỗi khắc khoải hướng về Mẹ Cả, con gái thủy thần. Nàng là ai ? Nàng xấu hay
đẹp ? Nàng ở đâu, góc biển chân trời nào ?
Tôi bắt đầu hình dung thấy nàng. Nàng
hiện ra rực rỡ. Những đường nét trên khuôn mặt nàng rõ ràng, đôi lông mày thanh
tú, quả cảm. Thoạt nhìn, nàng thậm chí đen đúa và lãnh cảm. Nàng không đẹp. Khoảng
cách giữa tôi và nàng là khoảng cách của hai vật thể tự do, vừa đối nghịch, vừa
bao trùm. Cả tôi và nàng đều cùng tranh đấu tìm cách giải thoát sự bao trùm đó,
hướng tới tự do. Khi tự do là lúc nàng mất tôi và tôi mất nàng. Ðể có nàng, tôi
buộc phi sống kiếp sống của kẻ khổ sai lưu đày, tôi buộc phải vắt kiệt tôi cho
đến chết. Tâm hồn nàng ăn uống thứ thức ăn thật man rợ: Ðấy là từng miếng sống
tươi rói của cuộc đời tôi. Tôi hình dung nàng xé xác tôi bằng bàn tay thon nhỏ,
móng sắc. Nàng nhai từng miếng thịt và thè đầu lưỡi nhọn hoắt liếm những giọt
máu ứa ra.
Những ý nghĩ trên không phải đến ngay
với tôi khi ấy, khi tôi đói khát lang thang trên đường mà mãi sau này tôi mới
hiểu ra. Thời tôi đang kể là thời tôi còn mụ mị, đầy những thành kiến ngộ nhận.
Tôi là một thanh niên nông dân ngu độn, trong lòng đầy những tình cảm thương
người vụn vặt, vừa duy tâm, vừa siêu hình, lại tầm thường nữa. Tôi chưa biết
khinh rẻ bản thân, cũng chưa biết khinh rẻ học vấn. Tôi chưa biết cách thương
mình. Những vấn vương của tôi về mái nhà, về tình cảm xóm làng bao bọc dưới những
sắc màu lãng mạn huyền thoại cũng là một thứ văn hoá thấp kém, có sức trì kéo.
Tôi chưa giác ngộ về lẽ tồn tại cá nhân, cũng như của cả bầy người.
Cuối tháng bảy, tôi nhận đóng gạch cho
một bà cụ người Sơn Tây. Bà cụ 80 tuổi, có người con trai đi bộ đội đóng quân ở
Cămpuchia. Bà cụ có người con gái năm nay 42 tuổi, lấy chồng ở tận làng xa, tên
là Thời, thỉnh thoảng mới về thăm mẹ được một buổi chiều, sấp ngửa dọn dẹp chốc
lát rồi lại ra đi. Bà cụ ở một mình giữa khu vườn hoang rộng hơn sào đất. Ngôi
nhà lợp rạ, vách trát đứng, giỏi lắm trụ được qua hai mùa mưa là đổ. Người con
trai làm đại đội trưởng công binh, tên là Thế, chưa có vợ. Bà cụ cho tôi xem những
bức thư anh viết ở Công Pông Xom, chữ rất thoáng, lời lẽ rõ ràng là của người
con có hiếu:
"U ơi, xin U nương nhẹ thân mình,
dù chỉ để cho con đỡ khổ. Con xin hứa sang năm con sẽ về phép, con sẽ làm nhà,
lấy vợ. U cứ giấm cho con một cô ở làng, mặt rỗ cũng được, goá chồng cũng được,
miễn là người ta yêu thương mình. Chỉ mười ngày phép là xong mọi việc, U sẽ mát
lòng mát dạ ở nơi suối vàng. Còn con, con khoẻ lắm, được mọi người yêu mến. Con
luôn nhớ về U, nỗi nhớ như gai đâm ruột..."
Tôi đào đất, đóng gạch ở ngay trong vườn.
Công đóng một viên gạch mộc là năm hào, bà cụ nấu cơm ba bữa cho tôi ăn, trừ tiền
gạo với tiền thức ăn, công thực tế chỉ còn ba hào rưỡi. Bà cụ bảo: "Tôi chỉ
mong đốt cho nó sáu vạn gạch. Nó xây nhà hết bốn vạn, còn hai vạn thì xây cái bếp.
Chú tính, nếu tôi thuê chú cả vào lò, cả ra lò, chú có làm xong trước tiết Ðông
chí không ?". Tôi bảo: "Ðược". Bà cụ bảo: "Tôi vụng tính
quá. Sao tôi lại đi thuê đóng gạch vào mùa mưa. Thế có khổ không ? Trước tôi cứ
nấn ná. Tại con mẹ Thời cả, tôi đã bảo nó bán cho tôi đôi hoa tai, nó cứ nói dối
không bán được. Cũng may gặp chú, chú thương tôi, làm thuê như làm cho nhà
mình. Cũng là cái số của tôi, để phúc lại được cho con..." Tôi cay xè mắt,
tôi muốn gào lên cho thấu cả trời xanh. Tôi muốn làm cho dứt hợp đồng để lại
lên đường. Khốn nỗi trời cứ mưa tầm tã, đóng được vài trăm viên gạch lại phải
khuôn vác che chắn. Tôi đói. Tôi không có việc nào khác. Tôi bắt buộc phải nhận
công việc chết rấp này, công việc có cơ khiến tôi trắng tay.
Tôi sẽ không kể lại công việc tôi làm
ra sao. Bà cụ dậy từ gà gáy sáng, đi bòn những lá rau khoai lang, rau dền, rau mảnh
cộng trong vườn để nấu canh mắm cua. Thức ăn mặn thường là tép rang, muối vừng, cua dạm. Cơm nấu trong cái nồi đất. Bà cụ nấu cơm khéo, cơm dẻo, không bao giờ
nát, cháy, cơm mềm chứ không khô, không lại gạo. Tất cả tâm lực bà cụ hướng về
sáu vạn viên gạch. Tôi cũng ước ao tâm lực của tôi hướng về một thứ vật chất cụ
thể như thế. Nếu như thế được, mà nếu được như thế...
Sang tháng mười, tôi đã đóng xong đủ
sáu vạn viên, chuẩn bị đốt một lúc hai lò gạch. Trông đống gạch mộc chất cao mà
sướng mắt. Bà cụ nhỏ bé, gầy yếu đứng lọt thỏm trong đống gạch tấm tức khóc.
Tôi bảo: "Nếu mà đốt lò, mấy cây khế, cây chuối trong vườn đều chết hết cả
đấy, cụ ạ". Bà cụ bảo: "Chết thì chết". Tôi bảo: "Nếu hết củi
là phi dỡ nhà mà đốt đấy, cụ ạ". Bà cụ bảo: "Thì dỡ đi chứ ! Sang năm
con tôi có nhà mới rồi".
Tôi nổi lửa đốt hai lò gạch, đốt kiểu
lò dã chiến, đúng trong ngày Ðông chí, rét buốt ruột. Mâm cõ đốt lò có chai rượu
trắng với cái chân giò luộc chấm tương. Tôi uống hết nửa chai rượu, chửi tục một
câu rồi kéo mái gianh nhen lửa. Bà cụ nằm trên chõng, đắp chiếc chăn dạ cũ. Bà
cụ đang ốm. Tôi dỡ nửa cái mái nhà mới nhen được lửa. Hai lò gạch cháy bùng, đỏ
rực. Nóng như thiêu. Trời rét mà tôi đánh độc một cái quần đùi, mồ hôi túa ra
như tắm. Lò đốt ba ngày đêm. Cây cối trong vườn xém trụi hết. Ðến đêm thứ ba
thì bà cụ mất. Bà cụ mất rất nhẹ nhàng, không giối giăng gì. Tôi ôm xác bà cụ
trên tay đi vòng quanh hai lò gạch như kẻ mộng du. Sáu vạn viên gạch, thế là bà
cụ nợ tôi hai trăm mười nghìn đồng.
Sáng hôm sau, chị Thời con gái bà cụ dắt
theo đàn con buộc khăn tang trắng chạy về. Chị Thời lần bên xác mẹ, lấy ra đôi
hoa tai vàng trả công cho tôi. Tôi giắt đôi hoa tai vàng vào áo bỏ đi khi người
ta đóng quan tài cho bà cụ. Tiếng khóc ai oán vọng sau lưng. Tôi đã mất gần nửa
năm trời làm việc ở đây. Biển còn xa lắc...
Tôi gõ cửa một tiệm vàng ở thị trấn H.
Lúc sáng tinh mơ. Bộ dạng tôi chắc kinh khủng lắm: Một nửa năm trời tôi không cắt
tóc, bộ quần áo từ ngày bỏ nhà ra đi đã sờn rách cả, đồ đạc trên người có mỗi
con dao nhọn lưỡi.
Tôi xoè đôi hoa tai vàng dạm bán. Chủ
tiệm vàng đi chân đất, quỳ xuống lạy như tế sao: "Làm gì có thứ hoa tai thế
này hở cậu ? Ðây là thứ đồ chơi con nít bán đày ở chợ. Mới sáng sớm dọn hàng
xin cậu thương tôi..."
Tôi ngồi phệt xuống nền gạch đá hoa.
Chủ tiệm vàng lấy ra các đồ nữ trang trong tủ giải thích cho tôi thế nào là
vàng tây, vàng ta; thế nào là vàng bẩy, vàng mười; thế nào là đồng là bạch kim,
là saphia. Tôi nghe như vịt nghe sấm. Chủ tiệm vàng dắt tôi ra quầy hàng xén
bên đường. chỉ cho tôi xem những thứ hoa tai, nhẫn vàng dùng làm đồ chơi trẻ
con. Ðôi hoa tai bà cụ trả công cho tôi giống y hệt thứ ấy, có thể bẻ vụn ra được.
Tôi chào ông chủ tiệm vàng tốt bụng mà
nhút nhát, rồi bỏ đi. Tôi đứng ở ngã ba đường. Sương mù rất dày. Xung quanh tôi
vắng ngắt. Tôi rút dao ra và quyết sẽ đâm chết người đầu tiên đi qua ở trước mặt
tôi lúc này để lấy môt nghìn đồng đủ ăn bát phở. Tôi đói. Tôi đói như một con hắc
tinh tinh. Tôi đói như một con lợn rừng. Tôi đói như một con vật ở địa ngục.
Tôi đói đã nửa năm nay. Nửa năm tôi ăn độc một thứ rau khoai lang, rau dền, rau
mảnh cộng, toàn thứ rất dễ mất máu.
Tôi đứng một lúc lâu. Sương tan dần, một
đám các cô các bà gồng gánh đi đến. Một giọng phụ nữ rất chua khúc khích cười:
"Phượng ơi ! Có người chờ để gánh thuê cho mày đi chợ kìa". Ðám người
dừng trước mặt tôi. Tôi sững sờ nhận ra khuôn mặt người con gái có tên là Phượng,
khuôn mặt đã ám ảnh tôi trong bao giấc mơ. Vẫn khuôn mặt ấy, những đường nét dứt
khoát và quả cảm, vừa hồn nhiên vừa lãnh cảm. Cô Phượng bảo: "Này anh kia,
có gánh thuê không?" Tôi bảo: "Có !" Cô Phượng trao gánh cho
tôi. Cô Phượng bảo: "Anh gánh gạo cho tôi lên chợ rồi tôi cho tiền đi cắt
tóc". Mọi người cười, họ vỗ vai, thụi vào ngực tôi. Tôi gánh gạo đi theo họ
như việc phải làm. Tôi không hiểu vì sao như thế. Cô Phượng đi bên cạnh tôi,
đung đưa cái túi xắc giả da màu đỏ.
Phiên chợ giáp Tết đông như chảy hội.
Cô Phượng bán loáng cái đã xong. Cô Phượng bảo tôi: "Tôi với anh đi ăn bún
riêu. Ðợi tôi mua ít hàng rồi anh gánh về cho tôi với nhé". Tôi gật đầu rồi
đi theo cô Phượng vào quán bún riêu. Tôi húp soạt hai lần xong bát bún. Cô Phượng
phì cười, gọi thêm một bát bún nữa. Cô Phượng hỏi tôi: "Anh đói đã mấy
ngày rồi ?" Tôi nói, tự dưng nước mắt ứa ra: "Tôi đói đã sáu tháng
nay rồi". Mọi người trong quán im bặt, lặng lẽ nhìn tôi. Chắc chẳng ai tin
lời tôi nói. Cô Phượng không nói năng gì, bỏ dở bát bún ngồi nhìn tôi ăn. Tôi
ăn xong, cô Phượng lại hỏi: "Anh có ăn bánh đúc không ?" Tôi gật đầu.
Cô Phượng lại gọi thêm cho tôi nửa mẹt bánh đúc. Cả đời chưa bao giờ tôi được
ăn uống ngon lành như thế.
Tôi gánh hàng đi theo cô Phượng về
nhà. Hàng toàn vôi với sơn, tôi không biết mua để làm gì. Nhà cô Phượng ở vùng
đất bãi, giống hệt quê tôi, chỉ khác ở đây có nhà thờ đạo Thiên chúa. Cô Phượng
ở với bố, một người cô mù không biết tên thật là gì, chỉ thấy mọi người gọi bà
là Maria. Cô Phượng có hai em gái, một cô tên Thủy, một cô tên là Liên. Khi đưa
tôi về, cô Phượng nói với mọi người: "Tôi nhặt được ông mãnh này ở ngã ba
đường. Có vẻ là dân lao động chứ không phải lưu manh giang hồ". Bố cô Phượng
hỏi: "Này anh kia, tên là gì ? Có vướng trộm cắp gì không ?". Tôi bảo:
"Tôi là Chương. Tôi không trộm vặt". Bố cô Phượng cười: "Tôi biết
rồi, tướng anh là tướng người trộm cướp lớn chứ không trộm cắp vặt. Cái dái tai
thế kia, cái mũi ống bương thế kia không phải là hạng tầm thường. Chán đời hay
sao mà cánh bèo trôi dạt đến đây thế này ?". Tôi bảo: "Phận tôi nó thế".
Bà Maria lấy tay sờ mặt tôi, thét lên: "Giêsuma ! Chúa ơi ! Người đâu mà
chẳng thấy thịt, chỉ thấy toàn đất là đất thế này ?".
Tôi ở nhà cô Phượng. Người ta hứa nuôi
tôi một tháng. Bố cô Phượng là trùm xứ đạo. Công việc của tôi là sơn, quét vôi
lại toàn bộ nhà thờ. Công việc khó khăn nhất là phải tô sơn lại bức tượng chúa
đứng trên nóc gác chuông, bức tượng cao hai mét, tạc hình Chúa Giêsu mặc áo
choàng đỏ giang hai tay ra, chân đứng trên quả cầu tròn. Ðây là điểm cao nhất của
nóc gác chuông, hoàn toàn không có mặt bằng để dựng dàn giáo. Muốn tô sơn lại bức
tượng, tôi chỉ còn có cách buộc thừng vào người rồi chằng thừng vào thân tượng.
Hợp đồng công việc của tôi không có bảo hiểm. Bố cô Phượng bảo: "Xứ đạo
chúng tôi nuôi anh ba bữa, anh chết thì chúng tôi chôn. Làm xong anh được hai
trăm ngàn đồng". Tôi nhớ đến khoản tiến công đóng gạch cho bà cụ người Sơn
Tây mà cười ra nước mắt. Cô Phượng bảo tôi: "Anh nghĩ lại đi. Bức tượng
làm cách đây hai trăm năm rồi, vôi vữa không khéo đã mục, leo lên đấy nhỡ chết
thì sao ?" Tôi bảo: "Chúa giúp tôi. Nếu không thì chẳng có
Chúa".
Tôi quét vôi nhà thờ gần một tháng. Ðầu
tiên, tôi cạo hết lớp vôi cũ rồi phủ lên hai lớp vôi trắng. Ngoài cùng tôi quét
vôi vàng. Giúp việc cho tôi là cô Thủy, cô Liên. Bố cô Phượng xem xét công việc.
Ông bảo tôi: "Chú em ạ, tôi chỉ tiếc chú em là kẻ vô đạo. Nếu không tôi có
ba đứa con gái, tôi gả cho chú cả ba". Tôi đỏ bừng mặt. Tôi cười đau đớn.
Tôi đâu phi loại chó dái đi tìm chó cái ? Trái tim tôi đã thuộc về nàng, thuộc
về Mẹ Cả, thuộc về con gái thủy thần...
Sau khi quét vôi xong và sơn lại toàn
bộ cửa kính nhà thờ, tôi bắt tay vào việc tô tượng Chúa. Trước ngày tôi trèo
lên nóc gác chuông, cô Phượng nấu cho tôi một nồi nước hương nhu bảo tôi tắm gội.
Mọi người trong nhà cô Phượng đều quan tâm săn sóc đến tôi. Họ biết có thể đến
ngày mai tôi không còn ở trên cõi đời này nữa. Ông trùm đạo có vẻ bồn chồn. Nửa
đêm ông kéo tôi dậy, pha một ấm trà đặc mời tôi. Ông bảo: "Cậu Chương này,
hay thôi đừng tô tượng nữa. Tôi cứ lo lắng thế nào". Tôi bảo: "Bác mặc
tôi. Công việc nó thế". Ông cụ thở dài: "ừ ! Phải thế đấy. Nếu mệnh hệ
nào, cậu có oán tôi không ?" Tôi bảo: "Không". Ông cụ nghĩ một
lúc rồi lưỡng lự hỏi: "Cậu Chương này, cậu có muốn giối giăng gì không
?" Tôi cười: "Nước ta có sáu mươi triệu người thì năm mươi tám triệu
cười vào mũi lời giối giăng của tôi". Ông cụ bảo: "Tôi hiểu. Cậu đi
ngủ đi".
Tôi đi ngủ. Quả thực tôi chẳng lo lắng
gì. Kể từ ngày tôi bỏ nhà ra đi, tôi rất ít khi nghĩ ngợi về mình. Những khao
khát của tôi không gắn gì với đời sống và tồn tại của bản thân tôi. Hôm nay tôi
sống như một con vật hay một ông hoàng có gì quan trọng ? Trái tim tôi đã khô
héo và cằn cỗi. Tôi biết tất cả những thiện cảm mà cô Phượng, con gái ông trùm
đạo dành cho tôi, thậm chí cả những thiện cảm của cô Thủy, cô Liên dành cho tôi
nữa. Tôi biết hết. Tôi không có quyền gắn sinh mạng của tôi với họ, bởi như thế,
rốt cuộc tôi cũng lại sống như ông Nhiêu, như ông Hai Thìn hoặc như những người
dân hiền lành lam lũ ở quê hương tôi hay là ở xứ đạo này. Một mái nhà gianh với
ba bốn trái tim vàng là hết nước. Cô Phượng tôi gặp ở lớp kế toán dạo nào hay
cô Phượng con ông trùm đạo ở đây cũng chỉ là một mảnh của nàng, con gái thủy thần,
người tôi ước ao gặp gỡ...
Sáng hôm sau, tôi trèo lên nóc gác
chuông. Tôi lấy một sợi dây thừng để buộc lòng thòng rồi tròng lên cổ Chúa
Giêsu làm điểm tựa. Tôi buộc sợi dây thừng vào quanh người tôi rồi vừa đu vừa
làm việc. Cả xứ đạo đứng tụm ở dưới gác chuông nín thở theo dõi công việc của
tôi. Chỉ sơ suất, sợi thừng đứt hoặc tôi bị mất thăng bằng, tôi sẽ rơi trên cao
ba mươi mét xuống nền sân đá.
Tôi mê mải làm việc. Không biết bao
nhiêu thời gian trôi qua. Trong ống tay áo Chúa Giêsu có một tổ chim. Những cọng
rơm của tổ chim chẳng khác những sợi vàng ròng. Ðến cuối ngày, tôi đã tô xong bức
tượng. Một niềm hân hoan khiến tôi nghẹt thở. Phút cuối cùng, không hiểu sao,
tôi đã không kìm được ý thích ngông cuồng là ký tên lên vầng trán thanh thản của
Chúa. Lần vào mái tóc xoã, tôi dùng con dao nhọn lưỡi vạch tên tôi lên đấy. Về
việc này, đến sau này tôi phải trả một giá rất đắt, tôi không lường được.
Tôi đứng trên vai bức tượng mắt nhìn về
xa. Mặt biển dâng trước mắt tôi, căng như sợi chỉ. Tôi nghe thấy tiếng sóng như
tiếng người thở dốc. Những tia hào quang lấp loáng ở một góc biển và không hiểu
sao tôi nghĩ đấy là nơi con gái thủy thần trú ẩn.
Tôi xuống sân nhà thờ trong sự hân
hoan của toàn xứ đạo. Tôi thấy xây xẩm, bải hoải toàn thân. Tôi nằm sấp xuống bậc
đá ngất đi. Tôi thấy hồn tôi nhẹ như sợi khói. Hồn tôi bay là là trên các bậc
thềm nhà thờ, trên các mái gianh, mái rạ, trên các ngõ nhỏ, trên các vườn chuối.
Hồn tôi bay trên các cánh đồng khô nẻ... Tôi không biết mọi người đưa tôi về
nhà từ khi nào nữa.
Nghỉ ngơi dăm hôm, tôi lại lên đường.
Tôi mặc bộ quần áo nâu nhuộm vỏ, giắt bên lưng con dao nhọn lưỡi. Cả nhà cô Phượng
lưu luyến tiễn đưa tôi. Ông trùm xứ đạo, bà Maria, cô Thủy, cô Liên tiễn đưa
tôi đến cuối vườn chuối thì dừng lại. bà Maria quàng vào cổ tôi sợi dây đeo
thánh giá rồi làm dấu trên ngực tôi. Cô Phượng đưa tiễn tôi thêm một quãng ngắn
nữa. Cô Phượng bảo tôi: "Anh Chương này, thế anh đi thật à ?". Tôi gật
đầu, tôi bảo: "Thôi em về đi. Em nhớ cầu nguyện cho anh". Cô Phượng gục
đầu vào ngực tôi nức nở: "Thôi anh đi đi, chân cứng đá mềm, em chẳng giữ
được... Xin anh nương nhẹ thân mình, dầu chỉ để cho em đỡ khổ".
Tôi vùng đi như bỏ chạy. Trước mặt tôi
là dòng sông. Sông chảy ra biển, biển rộng vô cùng. Tôi chưa biết biển... Thế
mà tôi sống nửa cuộc đời rồi đấy. Thời gian cũng thao thiết trôi. Chỉ ít năm nữa
đến năm 2000...
Tôi cứ đi... Phía trước mặt tôi còn biết
bao điều bất ngờ chờ đợi. Nàng là ai ? Con gái thủy thần ? Nàng ở đâu ? Con gái
thủy thần ? Là tình chi ? Con gái thủy thần ? Ðể tôi mượn màu son phấn ra đi..
Truyện Thứ Ba
"Giang hồ còn lại mình tôi
Quê người đắng khói, quê người cay
men..."
Nguyễn Bính
Kể từ ngày tôi rồi xóm đạo bên sông ra
đi, thoắt cái thế mà đã mấy năm ròng. Không biết bao nhiều sự việc qua đi,
không biết bao nhiêu người tôi gặp gỡ, gặp gỡ rồi lại chia tay..., không biết
bao nhiêu vui buồn, đắng cay cũng có, ngọt bùi... - ồ mà sao vị ngọt bùi cũng
nhạt vậy à ? - mà ngọt bùi cũng có...
Tôi đã yêu, đã được yêu. Tôi cũng đã
chạy trốn nhiều lần.
"Chương này ! Không phải thế, vẫn
không phải thế!"
Tôi đã sống nhiều nơi, làm nhiều việc.
"Chương này! Không phải thế, vẫn không phải thế !".
Tôi nhớ khi tôi lên mười tuổi, lúc ấy
chuyện về Mẹ Cả đang ồn ào cả lên, sáng sớm tôi thường hay đi dọc bãi cát bên
sông, thầm ao ước trông thấy hình ảnh siêu phàm. Sương mù giăng giăng trên mặt
sông. Khi nắng lên, sương tan ra, sương tan ra rồi bay lên như khói, như mây. Mặt
sông lộ rõ, ngái ngủ và thẹn thùng. Sóng vỗ bờ; đảy xác những con phù du, những
con vờ đến tận chân tôi. ấy là cảm giác về lẽ thường, lẽ vô thường lần đầu tìm
đến rón rén thăm dò tâm hồn tôi. Tôi không biết, tôi không hề để ý đến chúng.
Tôi còn quá trẻ! Lúc ấy, sự mất mát, sự vô nghĩa, lẫn ý thức về thời gian biến
dịch không khiến tôi phải bận lòng.
Tôi đi dọc bãi cát bên sông. Tôi nhìn
thấy một hố cát lõm ngay trên mép nước. Tôi hình dung đêm qua con gái thủy thần
đã nghỉ ở đây. Nàng nói chuyện với sóng. Sóng khỏa lấp thân nàng. Nàng nằm
nghiêng, co người lại, đầu gối sát cằm. Nàng thủ thỉ với sóng. Nàng nói
:"Này sóng! Thôi đừng đùa, đừng ngốc nữa...".
Tôi đi... Thời tôi đang sống là thời
khó khăn gian khổ. Chiến tranh đã qua, mọi người bắt đầu xây dựng lại cuộc sống
mới. Những vết thương cũ khép dần miệng lại, lên da non. Người ta rối rít tìm
kiếm việc làm, kiếm tìm hy vọng. Làn sóng người từ nông thôn tràn ra thành phố
nhiều vô kể, hợp thành một tầng lớp "dân phiêu tán". Tôi đi lẫn trong
đám người này, lòng thắc thỏm lo âu cho số phận mình, cũng là số phận của một
ít nông dân hoặc cùng quẫn hoặc nhiều khao khát và ảo tưởng nhất.
Con sông quê hương lặng lẽ, rặng tre đầu
xóm, bức tường đá ong rêu phủ, bóng mẹ liêu xiêu in trong nắng chiều.
Tôi đi... Tôi muốn xem phía trước có
gì.
Tôi đi... Tôi đã khao khát tình yêu đến
như thế nào, như thể người đi trong sa mạc khao khát nước! Ở đó lẫn lộn rất nhiều
mơ ước xen vào : đấy là hạnh phúc, giọt nước mắt, sự ấm êm, những chân trời,
chân trời và mặt biển rộng xa vời, một góc nhỏ trong vườn, một ngôi nhà nhỏ với
cửa sổ rộng... ồ, rất nhiều thứ đấy ! Mẹ Cả của tôi, ảnh hình của một điều gì
đó hơn cả người con gái, hơn cả người đàn bà. Nó là ảnh hình của một nửa thế giới
bên trên hoặc bên dưới tôi, của thượng giới và trần gian. Con gái thủy thần!
Nàng ở đâu? Nàng bận việc gì ? Sao nàng không đến cùng tôi mà nàng chỉ gửi những
tin sứ của nàng đến như cơn mưa kia bất chợt, như chiếc hôn vội vàng kia bất chợt
xót xa tê tái tận đáy lòng...
Thôi thôi... Tôi đã nhục nhã, đê hèn đến
như thế nào. ở đâu chứ ? Từ đâu chứ ? Vì cái gì ? Mà Chương ơi, nỗi cô đơn và sự
bất lực của mi nào ai thấu được ngoài mi ? Ai đã làm chi ? Mà mi đã làm chi ? Bới
cái tình chi ?
Nào ! Tôi phải nhận rằng trong khát vọng
tìm kiếm cuộc sống của tôi hẳn có ẩn chứa một con quỷ dữ đã thiếp ngủ có lẽ
hàng thế kỷ. Nó ngẫm nghĩ đôi chút về tôn giáo, về bản chất con người chẳng qua
cũng chỉ nhằm để đối chiếu và làm sắc nhọn thêm bản lĩnh quỷ dữ của nó mà thôi.
Nó vừa ngô nghê, vừa không ngoan, vừa nhanh nhẹn. Nó đa nghi như Tào Tháo. Nó
hiểu thời cuộc... A... Nó hiểu những cơ hội ít ỏi của mình. Nó sục sạo, tìm kiếm.
Nó phản bội trái tim tôi. Nó giết chết những khát vọng mong muốn cao thượng tử
tế trong tôi để duy trì cuộc sống chính nó, trong xác thân phàm tục này. Tôi đã
nhiều lần bắt gặp nó trong tiềm thức mơ hồ của tôi. Khi tôi phải che mặt, phải
ê chề, khi tôi chạy trốn, nhục nhã, tủi hổ... nó ngồi trong góc tâm hồn và khe
khẽ hát bài ca của mình, lạnh lùng, giễu cợt. Nó biết tất cả điều ấy chỉ là ước
lệ, không chính xác bao nhiêu, độ bền vững thấp, do ai đó đặt ra trong tình thế
bắt buộc, khi không hiểu gì lắm về đời. Kẻ đặt ra nó sẽ rối trí, sẽ xấu hổ khi
y chán đời, khi y thất bại, nghĩa là khi ấy y đã không còn nhiều cơ hội nữa
trong đời. Tôi biết chắc chắn thế mà. Tôi biết chắc chắn thế...
Tôi đi... Hôm qua mưa. Hôm nay nắng đẹp.
Ngày mai nắng. Tôi là Chương. Tôi đi, tôi đang đi...
Cách đây không lâu, tôi đến làm thuê
cho một gia đình người ở thành phố. Chủ nhà là một người giàu. Ngôi biệt thự đã
xây xong, bây giờ xây thêm một bức tường chắn bên ngoài. Tôi đến nhận việc cùng
với năm người khác nữa, trong đó có một cô gái tên là Mây, người Mường Hòa
Bình.
Làm được ba ngày, đến buổi trưa thì
Mây đến gần bảo tôi: "Anh Chương này, bà chủ nhà bảo tôi mời anh lên nhà".
Tôi bước vào phòng khách. Căn phòng rộng,
trải thảm, đồ đạc cầu kỳ. Trên tường treo bức tranh thảm dệt hai con ngựa đang
âu yếm nhau. Tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ treo tường sốt ruột và mờ ám. Tôi
nghĩ... Nếu là nơi ở của tôi thì sẽ là cửa ra vào nhỏ và cửa sổ rộng, không
trang trí gì và ngoài kia là bãi cỏ xanh với cánh rừng.
Tôi chờ một lúc lâu thì có tiếng gọi mời
tôi lên gác. Cô chủ trạc 32 tuổi, xinh đẹp, nằm ở trên giường.
Cô chủ bảo tôi :"Anh vào
đây...". Tôi bước vào phòng. Cô chủ bảo tôi: "Anh ngồi xuống đi...
Tôi tên là Phượng. Còn anh, anh tên là gì?". Tôi bảo: "Tôi là Chương,
con ông Hùng". Cô Phượng cười: "Anh ngồi xuống đi, tên anh không có ý
nghĩa gì với tôi. Anh hãy nhìn xem. Tôi có đẹp không ?": Tôi bảo: "Ðẹp".
Cô Phượng cuời: "Anh vội vàng quá. Anh chưa biết thế nào là đẹp hay xấu
nơi người đàn bà. Anh thấy tôi giàu, anh tưởng tôi đẹp. Anh thấy tôi học thức,
anh tưởng tôi đẹp. Không phải thế ! Nếu tôi đẹp, tôi phải nhìn thấy trong ánh mắt
anh dứt khoát có những khao khát dục vọng". Tôi cười buồn bã, không biết
trả lời ra sao. Cô Phượng bảo: "Anh là người làm thuê, anh là dân đen. Phải
không nào ?" Tôi bảo: "Phải". Cô Phượng bảo : "Như thế nghĩ
là anh không có gì cả. Anh là kẻ yếu". Tôi bảo: "Xin cô dừng sỉ nhục
tôi". Cô Phượng bảo: "Tôi không sỉ nhục anh. Tôi chỉ nói ra một sự thật.
Anh không có của cải, không có sở hữu cá nhân, anh không có quyền sĩ diện,
không nên tự ái, không nên phản kháng".
Tôi im lặng, tôi không hiểu lắm về những
người giàu tiền và có học thức. Tôi thấy họ bí hiểm, họ giỏi giang, họ nguy hiểm.
Thế thôi ! Cô chủ của tôi muốn sức lao động của tôi ? Muốn gì ? Muốn tâm hồn
tôi ? Mãi đến sau này tôi mới biết rằng trong tôi cũng có đôi điều giá trị và
cũng không ít rác rưởi thối tha. Tôi phải trả giá cho bài học ấy của mình.
Nhưng đấy là về sau, về sau này...
Rồi Phượng và tôi cùng hiểu ý nhau.
Tôi lên giường nằm. Cô Phượng bảo: "Anh hấp tấp và vội vàng ! Chẳng qua
anh là một con thú yếu. Những con thú yếu hiểu tình yêu như công việc, như đi
cày. Thái độ của họ đối với cuộc sống cũng đều như vậy. Hoàn toàn không phải thế! Cuộc sống là một quá trình suy đồi, quá trình hưởng thụ. Có thế thôi !".
Tôi gầm gừ như sư tử. Cô Phượng bảo: "Anh im đi... đừng có gầm gừ. Sư tử
cũng chỉ là một con thú đáng thương, nó sợ những con sư tử khác... Anh yên tâm
đi, bố chồng tôi chết rồi, chồng tôi không có ở nhà !". Tôi cười như mếu.
Tôi tiếc là mình ít học vấn quá, không tranh cãi được, không hiểu tý gì. Tôi
xúc động.
Tất cả bí mật của vũ trụ, xã hội, công
danh, tiền bạc, nghệ thuật... Cô Phượng bảo tôi - là ở chuyện này. Bọn đàn ông
các anh loanh quanh vì các anh sợ hãi. Các anh không dám đam mê. Trật tự phụ
quyền được đặt ra là một thứ trật tự đầy rẫy bạo lực, dối trá, chủ yếu không phải
phục vụ con người mà là dùng để ngăn chặn thú tính trong bọn đàn ông với nhau.
Anh có hiểu không ?". Tôi bảo : "Không". Phượng bảo: "Anh mặc
áo quần vào rồi cút đi !
Tôi xấu hổ bỏ ra ngoài. Tôi không
thích làm việc này. Tôi về chỗ ở của tôi trong khu nhà tạm góc vườn. Tôi ngủ.
Trong mơ tôi thấy tôi đi lạc vào một lòng suối khô cạn. Tôi đi ngược lên mãi.
Hai bên đường đi là vách đá dựng đứng như đường lên trời. Tôi mơ thấy con gái thủy
thần. Nàng hiện ra trong ánh sáng mờ mờ huyền ảo. Nàng không hùng biện. Nàng chỉ
buồn rầu.
Tôi ở nhà cô Phượng mấy tháng ròng. Chồng
cô Phượng vắng nhà, đang ở nước ngoài, mấy đứa con đi học suốt ngày. Cô Phượng
có cách nghĩ về tình yêu khá lạ lùng: "Tôi thưởng thức anh, tôi nhắm anh.
- Cô Phượng bảo tôi. - Như thể người ta nhắm một món ăn".
Cô Phượng bảo tôi : "Ðàn ông các
anh tùy tiện đặt ra luật pháp. Cả chồng tôi nữa. Họ có bà Cả, Bà Hai. Họ hưởng
lạc giấu giếm... Anh là ông Hai của tôi, anh có thích không ?". Tôi bảo :
"Cũng thích". Cô Phượng bảo: "Tôi thích bản chất hồn nhiên man rợ
của anh. Nó vô học, vô đạo nhưng lành mạnh".
Cô Phượng giới thiệu tôi cho các bạn
gái của cô. Họ đều xinh đẹp, sồn sồn, có học thức, giàu có. Những điều họ nói
trong phòng ngủ khác hẳn những điều tôi vẫn được nghe khi tôi còn ở quê nhà,
khi tôi đi học hoặc đi kiếm sống ngoài đời.
Cô Phượng bảo tôi: "Khi ngủ với
anh, những người phụ nữ khác có kêu lên không?". Tôi bảo: "Có đôi người".
Cô Phượng cười : "Những tiếng kêu ấy chính là ngôn ngữ nguyên thủy, tinh
khiết. Nó trong sáng hơn mọi thứ tiếng ru, thơ phú và nhạc nhã. Tôi luôn cảm thấy
những tiếng kêu ấy tựa như tiếng kêu của người tiền sử trong hang động...".
Tôi ngẫm nghĩ, tôi thấy có lý nhưng tôi không kêu.
Tôi kể cho cô Phượng và những bạn gái
của cô nghe về quang cảnh làng tôi bên sông. Nhà tôi nghèo, trông ra làng nước
cũng nghèo. Mùa lũ về, tôi hay bơi ra bãi Nổi trên sông vớt củi. Dòng sông đỏ
quạnh phù sa. Những cành củi trôi phăng phăng. Những xoáy nước hút chóng mặt.
Những con cung quăng chạy nhảy điên cuồng, vô số xác những đàn phù du, xác những
đàn vờ chết rất thản nhiên, trắng xóa trên bờ. Chúng không băn khoăn gì về đạo
đức. Chúng không hùng biện.
Cô Phượng hỏi: "Anh thích thế à
?". Tôi bảo : "Cũng thích". Cô Phượng bảo: "Tôi thấy không
ý nghĩa gì. Anh phải biết rằng cuộc sống là rất rộng lớn".
Tôi không trả lời. Tôi thấy cuộc sống
của tôi và những người dân quê tôi đơn giản bình thường không phải đặt ra qua
nhiều câu hỏi. Chúng tôi sống, lớn lên, hàng trăm ngàn vạn thế hệ nối nhau,
quanh quẩn chuyện làm ăn, gia đình, tôn giáo, nhà cửa, dục vọng.
Tôi bảo: "chỉ có nỗi buồn là vĩnh
cửu". Cô Phượng bảo: "Có thể... nhưng anh đừng khẳng định". Tôi
hình dung ra xác những con phù du, những con vờ bị sóng đánh tạt vào bờ. Tôi chợt
nhận ra con người phải lùi rất xa mới gạn lọc được đôi chút dấu vết giá trị văn
minh, giống như hôm nay ta xúc động bởi một câu Kiều, bởi một pho tượng Chàm, bởi
một dấu vân tay trên bình gốm cổ... Hàng tỉ những con phù du, những con vờ chết
đi không để lại một dấu vết gì.
"Cảm giác thôi. -Cô Phượng bảo
tôi. - Ðàn bà chúng tôi chỉ tin ở cảm giác, mà cảm giác nghĩa là nhầm lẫn và tạm
bợ".
Tôi rất ít có thì giờ để nghĩ ngợi những
điều khó hiểu như thế. So với mọi người thì tôi chẳng có gì cả. Tôi không có tiền
bạc, công danh, không có gia đình để yêu thương lo nghĩ, không có bạn bè...
Ngay cả giấy tờ tùy thân cũng không có nốt. Tôi là con số không. Tôi vui một
mình, buồn bã một mình, mơ mộng một mình... Tôi chỉ có con gái thủy thần chờ đợi...
"Thế là anh sướng". -Cô Phượng
bảo tôi.
Tôi cười thầm... Tôi nhớ lại những gì
mình đã trải qua trong đời. Ðám trẻ trần truồng ngồi ở bên sông, nấp trong rặng
mía. Chúng tôi nói chuyện cao siêu về người Nga, người Mỹ làm bom nguyên tử,
chuyện bà Mạnh Tử dạy con, chuyện người ta câu được một con cá voi, nhưng khi
lôi được vào bờ chỉ còn có mỗi bộ xương... Thế đấy, những chuyện trẻ con, những
chuyện động trời...
Cô Phượng bảo tôi: "Này Chương !
Anh đang nghĩ gì ?" Tôi bảo: "Trên nền nhà gạch đá hoa thì rất khó
đi...". Cô Phượng bảo: "Chồng tôi cũng nói như thế. Anh ta trách tôi
không biết đi lại trong nhà, không có cử chỉ linh hoạt và chỉ biết đi từng bước
một như đếm...".
Cô Phượng nói năng như trên sân khấu.
Tôi nhớ chiếc chòi canh mà khi tôi còn làm bảo vệ ở quê. Ðêm trăng suông, tôi
ngồi chống cằm, mắt nhìn lên những ngôi sao xa xăm. Một ánh mắt vô hình từ
trong khoảng không sâu thẳm ở giữa bầu trời bao la đang theo dõi theo tôi. Tôi
biết chắc chắn có ánh mắt ấy. Ðiều ấy khiến tôi xúc động. Sau này tôi gán cho
nàng, cho Mẹ Cả, cho con gái thủy thần, cho người đàn bà vẫn chờ đợi tôi ở nơi
xa xăm, mãi tận đâu đâu. Tôi biết, nàng vẫn hy vọng và đấy chính là chỗ dựa cuối
cùng cho sự cô đơn hoang vắng ở trong lòng tôi. Tôi đã sống qua rất nhiều lẽ
thường: những lần đánh nhau với bọn phàm phu, làm việc không công cho người
nghèo khó, nhả nhớt cợt đùa với lũ du côn... ánh mắt vô hình vẫn theo dõi tôi
hoài hoài. Nàng vẫn thủ thỉ trong đêm. Nàng nói: "Này Chương, vẫn không phải
đường ra biển...".
Cô Phượng bảo tôi: "Có lẽ ở thế hệ
trước thì cha anh tôi cũng giống như anh bây giờ. Họ mang lại đủ thứ cho chúng
tôi".
Tôi nằm im. Tôi không biết rõ những điều
cô Phượng nói. Ðiều gì làm cho người ta khao khát ham sống ? Tôi hỏi cô Phượng
điều này. Cô Phượng trả lời: "Ăn ngon, lời tâng bốc và sex. Anh còn thêm
gì nữa thì tuỳ".
Những ngày ờ nhà cô Phượng khiến tôi
suy sụp. Tôi kiệt sức. Tôi hoa mắt, chóng mặt. Ngày xưa tôi đi đào đất cũng
không vất vả như thế này. Ðiều kinh khủng nhất là những chuyện mà người đàn bà
rót vào tâm hồn tôi. Tại sao cuộc sống lại nhiều trói buộc như thế ?
Khi chồng cô Phượng về nhà được mấy
hôm thì tôi bị đuổi việc. Tối hôm ấy, tôi nằm trong xó ở khu nhà tạm. Thân thể
tôi đau nhừ, lưng đau tưởng như gãy gập, cổ họng rát khô. Nửa đêm, có tiếng kẹt
cửa rồi Mây mang vào cho tôi một bát cháo nóng.
Mây hỏi tôi: "Anh Chương ! Anh bị
sốt à ?. Tôi bảo. "Không". Mây bảo: "Anh Chương này, tối nay tôi
phải lên hầu ông chủ. Tôi không thể từ chối vì món tiền ông ta cho tôi quá lớn....
Tôi không muốn dành sự trong trắng của tôi cho người khác... Tôi muốn anh...
Anh giúp tôi đi...". Mây đưa tay cởi cúc áo ngực của tôi. Trong bóng tối mờ
mờ, Mây quay người lại, tôi cảm thấy tấm lưng trần quẫy ở trước mặt, ánh sáng
trắng bên ngoài chiếu vào trông thật kinh dị nhưng đẹp lắm. Tôi chợt nhớ đến Mẹ
Cả, đến con gái thủy thần. Lòng tôi nhói lên cảm giác đau đớn xót xa.
Tôi nghe như có tiếng khóc từ nơi xa
xăm vọng lại, như từ nơi hoang mạc đưa tới. Nước mắt của tôi và Mây hòa quện
vào nhau ướt đầm trên hai khuôn mặt.
Mây giằng ra khỏi tôi thất vọng:
"Này Chương ! Anh bất lực à ?". Tôi úp mặt khóc thầm, xấu hổ, ê chề.
Mây đứng dậy bảo tôi: "Em hiểu, cái số của em nó thế... Anh đừng buồn, đừng
khóc nữa... Những người ở trên nhà kia họ được tất cả... Anh Chương, xin anh bảo
trọng thân mình, dẫu chỉ để cho em đỡ khổ...".
Sớm hôm sau, tôi bỏ đi rời khỏi thành
phố. Tôi không có ai để chào từ biệt.
Tôi cứ đi, đi mãi... Trước mặt tôi là
dòng sông thao thiết. Sông chảy ra biển. Biển rộng vô cùng. Tôi chưa biết biển...Tôi
chưa biết biển... Mà tôi sống nửa cuộc đời rồi đấy. Chỉ vài năm nữa đến năm
2000.
Con gái thủy thần ! Nàng ở đâu ? Nàng ở
chỗ nào ? Vì cái gì ? Bởi cái gì ? Ðể tôi mượn màu son phấn ra đi...
Con gái thủy thần ! Nàng ở đâu ? Nàng ở
chỗ nào ? Vì cái gì ? Bởi cái gì ? Ðể tôi mượn màu son phấn ra đi...
Nguyễn Huy Thiệp
Hà Nội, tháng 4-1988
“Mẹ Cả”
– Giấc mộng của những đứa trẻ sinh ra từ làng
Đến một
ngày, “kẻ” ấy xuất hiện – Nguyễn Huy Thiệp – kẻ ưa đề từ cho mỗi câu chuyện của
mình bằng “Mẹ tôi là nông dân, còn tôi sinh ra ở nông thôn”, và bạt sau mỗi
chương bằng lời thiết tha kiếm tìm “Con gái thủy thần! Nàng ở đâu? Nàng ở chỗ
nào? Vì cái gì? Bởi cái gì? Để tôi mượn màu son phấn ra đi…” thì người ta bắt đầu
lờ mờ nhận ra, tồn tại một thế giới nội tâm huyền bí nơi những đứa trẻ từ làng
bước ra, phức tạp, kì ảo, khó nắm bắt như nhân dạng của Mẹ Cả.
Nguyễn
Huy Thiệp không từ chối một chất liệu tuổi trẻ nào trong những tự sự của mình.
Ông xuyên không từ miền cổ tích của chàng Trương Chi nghẹn ứ trong chính tiếng
hát của mình tới những cảnh quan chính trị ngợp thực dụng mà Nguyễn Thái Học phải
lấy cái chết để bao bọc cho lý tưởng cách mạng của mình. Ông men theo từ cái trống
rỗng hóa man dại của miền núi nơi cô gái mười sáu tuổi vừa dửng dưng vừa bất
mãn bổ nhát rìu xuống đầu bố mình, cho đến những sáo mòn vờ như là yên ả khiến
những Ngọc, những Chương, những Nhâm nhiều phen giật mình thon thót, quằn quại
giữa ruộng đồng, đất trời, rồi cả những giả tạo thuộc phố thị buộc những cậu
quý tử sáng láng phải bỏ nhà đi lang vì chán chường, nhàm tẻ giữa cái nôi gia
đình (như là) êm ấm. Mỗi không gian như cái nôi dung chứa trong nó một kiểu tuổi
trẻ. Trong văn học, trước Nguyễn Huy Thiệp, khi chạm gần thể kỉ hai mươi, đã thấy
xuất hiện nước mắt của cô Kiều ở lầu Ngưng Bích hay người chinh phụ ngồi trước
gương tiếc rẻ một tuổi xuân đang trôi đi. Tới thập niên hai mươi, văn chương Tự
lực gom lại được một nhóm hình tương nhân vật để tạo dáng cơ bản cho lứa gọi là
tuổi trẻ, bắt đầu xuất hiện rành rọt diện mạo của các nam nữ thanh niên Hà
thành biết yêu, biết say đắm, biết chống đối, biết thế nào là nỗi buồn lãng mạn
hay những lí tưởng đèm đẹp nhưng trừu tượng, xa vời. Nhưng từ Thúy Kiều, Kim Trọng
của Nguyễn Du cho đến những Tố Tâm, Đạm Thủy, cô Loan, cậu Dũng của Tự lực văn
đoàn mới chỉ là những mảnh tuổi trẻ phần nhiều mang dáng điệu của thị thành,
“thân sinh” ra họ, tức tác giả văn chương mang dung mạo của nhà nho tài tử chốn
kinh thành hoặc lứa nhà văn tân thời được nuôi nấng, âu yếm trong cái nôi phố
xá mới hình thành lên ở thế kỉ mới. Làng quê thì nghèo, cái màu bờn bợt của những
gương mặt nhăn nhó trong cái đói, cái bần hàn, cơ cực tự lúc nào làm triệt tiêu
đi những khả năng của một cú lia máy chậm từ nhà văn tới những gương mặt trẻ tuổi,
tiềm tàng sức sống đang trưởng thành. Đến một ngày, “kẻ” ấy xuất hiện – Nguyễn
Huy Thiệp – kẻ ưa đề từ cho mỗi câu chuyện của mình bằng “Mẹ tôi là nông dân,
còn tôi sinh ra ở nông thôn”, và bạt sau mỗi chương bằng lời thiết tha kiếm tìm
“Con gái thủy thần! Nàng ở đâu? Nàng ở chỗ nào? Vì cái gì? Bởi cái gì? Để tôi
mượn màu son phấn ra đi…” thì người ta bắt đầu lờ mờ nhận ra, tồn tại một thế
giới nội tâm huyền bí nơi những đứa trẻ từ làng bước ra, phức tạp, kì ảo, khó nắm
bắt như nhân dạng của Mẹ Cả.
Huyền thoại
Thế
giới nội tâm huyền bí của những đứa trẻ từ làng, trước tiên, có lẽ được bắt nguồn
từ cái huyền thoại của không gian vây bủa chúng, ngấm dần trong tiềm thức để
làm chất dinh dưỡng nuôi những thơ ngây, kèm đó là cả những ngô nghê và dại dột.
Chỉ có nông thôn mới bao chứa tuổi trẻ bằng huyền thoại của chính nó, đó không
phải một thứ fantasy trong một tiểu thuyết trên sách vở đặt ở thư viện và những
kệ gỗ trưởng giả nơi thành thị. Làng, nghĩa là không giống “thị”, không giống
chợ, không phải nơi để di chuyển, bán mua, mà là cái cột trụ lưu giữ kí ức. Huyền
thoại ở làng, nó là những truyện kể, cổ tích, thần thoại, là những lời đồn, nó
là mùi hương khói bao quanh đền đài miếu mạo, nó là cái bóng lập lòe của những
cây đa cây đề cây gạo, nó là một làn gió lạnh rờn rợn giữa đêm nơi bến sông,
nơi cánh đồng, nơi bãi tha ma. Ở Chương trong Con gái thủy thần, đó là ám ảnh về
người con gái thủy thần suốt một thời niên thiếu đến tận mãi mãi về sau. Ở nhân
vật “tôi” trong Chảy đi sông ơi, đó là hình ảnh của một con trâu đen kì diệu
trong truyền thuyết mang một “sức lôi cuốn lạ kì.” Hoặc trong Cánh buồm nâu thuở
ấy, đó là hình ảnh của một “cánh buồm nâu no gió, mùi mắm cốt sực nức bay là là
ở trên mặt sông, len vào ngõ.”mà cô gái trẻ tên Nhi mải miết chạy theo với một
giấc mộng cổ tích về chàng hoàng tử bước xuống tử một con thuyền. Giọng văn của
Nguyễn Huy Thiệp thường xuyên là thứ thanh âm sắc lạnh, dửng dưng tới phũ
phàng, nhưng hễ khi cần phải động chạm tới mảnh ấu thơ của những đứa trẻ ở
làng, cái sắc lẹm ấy dịu dàng lại, không gồng, không xù gai mà mượt mà chuyên
chở những hình ảnh của đồng, của làng. Đó là một đặc ân cho những cái tôi “sinh
ra ở nông thôn” không thể có ở những đứa trẻ như Hiếu của Những bài học nông
thôn, hay Khuê trong Tuổi hai mươi yêu dấu. Những đứa con sinh ra ở thành phố,
luôn rỉ bên tai là lời dặn dò của những ông bố nửa trí thức nửa thô kệch rằng:
“đồ chó, rằng nhà mày ở thành phố, tương lai của mày ở đấy” (Những bài học nông
thôn), chúng phải có cơ hội được về tới chốn hoang vắng, để nhìn một cánh diều,
hay chạm trán với cái bao la của bầu trời mới hay được trả về với vô tư. Thực
hành giáo dục ưa thích của những bậc phụ mẫu cấp tiến là mỗi mùa hè, tới kì
nghì, đều trả con về nông thôn, cho lên rừng xuống biến để mong đứa trẻ vốn đã
quen với cái lộn xộn được cưỡi ngựa xem hoa, trải nghiệm vài tháng thử yên
bình. Nhưng đó chỉ những thứ tập tành, một kì thực tập ngắn ngủi vừa kịp đủ để
tuổi trẻ từ phố được thị thực cái bất ngờ, cái giật mình, thậm chí ngỡ ngàng
khi nhận được cảm giác về tự do, và rồi chúng cũng chóng vánh quay lại đường
ray chưa kịp trật để về với những kì học kế tiếp. Cả hai thực tế, cả những bề bộn
của cảnh quan đô thành lẫn những xáo trộn mỗi ngày một thọc sâu vào những miền
quê đang tiến tới đổi mới đều không đủ chỗ dung chứa cho đôi cánh cần được sải
ra của những người sắp sửa cho trưởng thành. Chỉ có huyền thoại dẫu hư cấu
nhưng đẹp đẽ, màu nhiệm mới làm được, chúng có xu hướng trở đi trở lại và tạo
thành ẩn ức trong lòng những đứa trẻ để sau này, vịn vào mà phóng tầm mắt đến
khoáng đạt. Kí ức là bệ đỡ của thực tại và tương lai. Một công trình ấu thơ dẫu
được xây bằng những viên gạch tưởng tưởng vẫn là một cái móng nhà chắc chắn và
an toàn. Dẫu những tưởng tưởng đẹp đẽ nhiều khi làm con người ta trở nên non nớt
và cả tin. Nhưng “cả tin là sức mạnh”. Cái “cả tin” mà Thiệp vẫn dành cho người
trẻ, đó là món quà. Còn cả tin nghĩa là còn tưởng tượng, còn giấc mơ, còn cái để
ngưỡng về, còn chưa đầu hàng những thực dụng đang mon men xâm lăng vào bất cứ
ngóc ngách nào của đời sống này.
Lặng im
Nhưng
cổ tích là lí tưởng, huyền thoại là được vẽ ra, đó là những điều kiện tuyệt đối
để ra đề một bài toán mà mọi thứ đều tròn trịa như đặt giữa chân không bất khả
xâm phạm. Còn thực tế thì lằng nhằng và phức tạp. Cái éo le của không gian của
làng quê nằm ở nghịch lý: nó đủ rộng, thưa, vắng để cò bay được nhưng khốn nỗi,
lại nghèo nàn, nên nhiều khi, cánh cò nặng nề và mệt nhoài quá, không cất lên nổi.
Tuổi trẻ của những đứa trẻ sinh ra từ làng là thứ tuổi trẻ bị đè xuống im lặng,
cái im lặng giữa mênh mông của những triền đê, cành đồng, bờ sông, bầu trời
nhưng lại bị đóng sập lại sau một lũy tre làng. Những đứa trẻ nông thôn của
Nguyễn Huy Thiệp lớn lên từ những sinh hoạt lam lũ không thoát đi đâu được khỏi
những thành tố vật chất ngàn năm của làng quê: Nhâm đi gánh lúa, bắt ếch, Hiên
giã gạo, Năng chăn trâu cắt cỏ, Chương “làm ruộng, đào đá ong và làm thêm nghề
lột giang đan mũ.” Ngôn ngữ của chúng là những cấu trúc đơn, ngắn, cục mịch, vụng
về, không hình ảnh, ít tu từ, ngồn ngộn ra ngoài cả lớp vỏ hình thức và nhúm ruột
nội dung, không che đậy, rõ nhất là khi đặt nó trong những bối cảnh giao tiếp
mà người phía bên kia thuộc về một không gian sống khác. Đơn của một hội thoại
giữa cô gái tên Quyên, trở về làng từ thành phố, và Nhâm, 17 tuổi “sinh ở làng
quê, lớn lên ở làng quê.”: “Nhà anh cấy bao nhiêu sào? Mỗi sào bao nhiêu thóc?
Được bao nhiêu tiền?” – “Mỗi sào được hơn ba nồi, khoảng gần tạ, mỗi cân thóc một
nghì tư.” – “Hai mươi triệu tấn thóc cho sáu mươi triệu người.” – “Có ai chỉ
nghĩ đến ăn,”… Có ai chỉ nghĩ đến ăn, lời bạt của Quyên như lời quan tòa buộc tội
chàng thanh niên của làng, buộc cái tuổi 17 cường tráng vào loanh quanh những
phạm trù ăn uống căn bản đến trần tục, tầm thường. Nhâm không chỉ nghĩ đến ăn,
cái mơ mộng, cả nghĩ của cậu đậy điệm trong những cái lồng màn, thứ nội tâm
không tìm được lối bước ra đời sống. Xung quanh những đứa trẻ ở làng, ngay bên
cạnh những huyền thoại, là bố, là mẹ, là hàng xóm, những người “chẳng bao giờ
đi xa khỏi làng” với tâm niệm “ở đâu chẳng thế, chỗ nào cũng toàn là người.”,
những người “hướng nghiệp” con cái mình theo nghề đan mũ để có việc quanh năm
cho trẻ khỏi nghịch, những người không thể chịu đựng được nổi hai tiếng thi ca:
“A… hóa ra mày làm thơ viết văn! Giời ạ! Thật là đồ chó… Mày định viết văn làm
thơ dạy ai kia chứ” (Chú Hoạt tôi). Đó là những bàn tay vô hình thọc mạch và
bóp nghiến mất những thanh âm có hồn trong tiếng nói của những đứa trẻ làng. Vẻ
thủ cựu sồ sề của làng quê làm những đứa trẻ như Nhâm, như Chương ngần ngại với
những thứ đầy hấp lực như một cô gái từ thành thị, hay cái mới mẻ, tinh tươm
trong một manh áo mới: “Tôi ra giếng tắm, thay quần áo. Tôi lấy chiếc áo mới ra
mặc, nhưng thấy ngượng nên thôi.” Đó là thứ mặc cảm không thể rũ bỏ được của một
người nhà quê dù núp trong hình hài khỏe mạnh, đầy sức sống của một kẻ mới lớn.
Những người cùng ở làng, họ có thể cười xòa với nhau, họ có thể chỉ ngồi đây mà
giễu nhại về thứ ánh sáng tỏa ra từ phía thành phố mà họ chưa từng hiểu, chưa từng
chạm vào, đó là vẻ tự tin hóa bảo thủ chiết xuất ra từ dưới những mái đình.
Nhưng khi va chạm, khi đập phải những thứ từ bên ngoài, họ bất ngờ rúm lại thậm
chí sợ sệt. Những tưởng tượng trong họ khó gượng được dậy bởi lòng tự ti về cái
“vô danh” lẫn thô ráp của mình. Thi ca của những Chương, những Nhâm chảy thượt,
ướt đẫm từng trang của Nguyễn Huy Thiệp, chúng không phát ra âm thanh, chúng
dài vô tận nhưng vô hình. Những đắm say, mê mải của Chương trước cô gái tên Phượng
cũng chỉ co rút lại thành một câu đơn vỏn vẹn: “Không phải đâu. Cô đẹp lắm.”
Không ai hay vẻ đẹp của Phượng trong Chương, chỉ có tay nhà văn bỏ ngoặc kép đi
để kể riêng với bạn đọc rằng, ngày hôm đấy, sau đờ đẫn, sau ngất ngây từ một
cái hôn, cái chàng trai thô ráp, nặng nề tên Chương ấy nhìn thấy trăng rất
sáng. Những đứa trẻ lớn lên giữa ánh sáng của đô thị như Khuê sớm mang dung mạo
của những nhà tư tưởng tự thân, những triết lí dù còn nhiều méo mó nhưng luôn
có cái vẻ của sự ngạo mạn, kiêu hãnh, và nó bộc ra thành lời, và hành động. Nội
tâm của một tuổi trẻ nơi làng bị kẹt lại mãi phía bên trong, đuổi nhau như những
đợt sóng liên tiếp mà không thể trào vọt lên, nó mãi mãi ở đó, cùng vòng quay
nan hoa của chiếc xe đạp Nhâm đi về phía nhà ga, nơi mập mờ lằn ranh giữa huyện
lị và một làng quê vô danh, và thi ca ở của Nhâm, thứ mà người nhà quê vừa ghê
tởm vừa sợ hãi, cất lên mông lung:
“Tôi
nghĩ
Tôi
nghĩ về sự đơn giản của ngôn từ
Sự bất
lực của hình thức biểu đạt
Mà nỗi
nhọc nhằn đầy mặt đất
Sự vô
nghĩa trắng trợn đầy mặt đất
Những
số phận hiu hắt đầy mặt đất
Bao
tháng ngày trôi đi
Bao
kiếp người trôi đi
Sự
khéo léo của ngôn từ nào kể lại được….”
(Trích
– Thương nhớ đồng quê)
Sự bế
tắc của ngôn từ là có thật. Không có vở kịch nào của Nguyễn Huy Thiệp có nhân vật
người nông dân, những người trẻ từ làng càng không, bởi kịch là vùng đất để lên
tiếng, để phát ngôn. Còn tuổi trẻ ở làng, chúng phải chịu số phận của im lặng
như sự ngủ quên sâu trong lòng sông của con trâu huyền thoại. Con trâu đẹp đẽ
đó đã rất khó để ngoi lên.
Ra đi
Những
tiếng nói phải chịu sự tự nín và tự diễn biến trong thinh lặng ở tuổi trẻ,
chúng đòi được nói hộ hoặc một xúc tác, một cú hích để bật ra thành lời. “Ở nhà
quê sợ nhất là buồn chán, người cứ bã ra…” (Những bài học nông thôn) Là Hiên,
cô gái của làng quê đã thủ thỉ với Hiếu như vậy trong khi cùng giã gạo. Bất cứ
ai đều có thể quên mình mà tập làm quen với nhàm tẻ, biến sự đều đều của đời sống
mình thành đương nhiên và chấp nhận nó. Nhưng tuổi trẻ là một mùa đặc biệt của
đời người, và những đứa trẻ mười sáu, mười bảy cho đến đôi mưa khi đứng giữa những
hiệu ứng lặp đi lặp lại, chúng không cam chịu, không thỏa hiệp với cái “bã ra”,
cái vữa ra hay mùn mủi ở bản thân mình. Cái cảnh quan buồn buồn đến bã ra của
làng quê đã hiện diện ở đây cả nghìn năm, nó làm cho những bối cảnh của làng của
Nguyễn Huy Thiệp nhìn qua hình như không có thì, không rõ một nông thôn của quá
khứ, hiện tại hay giả tưởng ở tương lai. Nhưng những người trẻ – những sinh vật
mà các tế bào của nó đang nở ra, dịch chuyển và đòi được nở ra từng ngày làm sống
động lên cái quang cảnh không rõ cũ mới đó. Một cô gái như Hiên phải chờ đến cuộc
gặp với Hiếu để có thể nói toạc ra cái buồn chán của làng quê, để chứng tỏ mình
đã không vô tư chung sống với nó như với những nhịp đập đều đều của cỗ máy xay
gạo. “Tôi đã định tự tử vì buồn chán quá.” Hiên tâm sự. “Tôi nằm một mình ở ruộng
ngô, giữa tổ kiến vàng. Tôi tưởng kiến vàng đốt thì nhất định chết. Thế mà
không chết. Nó thương mình hay sao chứ? Chắc nó thấy tôi trẻ quá mà chết thì
phí.” Những kiến giải về tuổi mình đến bật cười nhưng chua xót. Tuổi trẻ có thể
tự tử chỉ vì lí do buồn chán quá. Những cô gái ở nông thôn quanh năm giã gạo có
thể không diễn thuyết được về tự do, về lí tưởng sống, nhưng sẵn sàng nhảy vào ổ
kiến vàng để tự mình kết liễu “nỗi buồn vĩnh cửu”. Sự tẻ nhạt, vô vị của đồng
quê có thể giết chết một đứa trẻ đang lớn mà không một ai hay. Hiên chưa thể là
nữ chính dữ dội của một vở kịch nào, lời kể của cô gái hai mươi chỉ siết vào một
lát trong câu chuyện của Hiếu, nhưng nó là báo động, là tiếng chuông cảnh cáo
cãi “bã ra” của làng quê đang hằn đau đớn lên da dẻ của tuổi trẻ từng ngày. Nó
âm ỉ như cái râm ran nhoi nhói của một ổ kiến vàng. Nông thôn chỉ thực sự nhói
lên cảm giác về sự buồn chán khi nó bị đâm một mũi tên xa lạ và mới mẻ với nó từ
bên ngoài vào. Sự buồn chán cả nghìn năm chỉ thực sự bị đe dọa và chịu áp lực
khi mở cánh cửa của nó ra cho một làn sóng đô thị ấp vào. Nhâm có lẽ chỉ nhận
ra cái vô danh của đồng quê khi ra ga để đón cô em họ tên Quyên học Đại học ở Mỹ
về, khi trông thấy cái ánh sáng lấp lòe của hàng quán ăn uống, giải khát chiếu
vào những góc khuất tăm tối của làng quê, làm chúng lộ ra trần trụi, và tiếng
còi hú từ những toa tàu đầy hành khách đánh động vào yên ắng nhưng không yên ả
của làng. Làng quê ở thời của những đứa trẻ trong sáng tác của Thiệp đã không
còn là mẫu hình trong cổ tích, trước kia, một cánh đồng không ồn ào không có
nghĩa là một cánh đồng “vô danh”, nó có bản sắc dẫu “nhà quê”. Cái vô danh
không đến từ hai thái cực đối lập của chuyện thành phố càng sáng, càng rõ thì
làng quê càng tối, càng vô hình. Cái vô danh của những cánh đồng không còn rõ
điểm bắt đầu của mình đến từ sự lai căn, biến tướng của những làng quê không giữ
được yên bình. Thành phố sáng đèn, nhưng ánh sáng của nó còn lần mò tới làng
quê, bóp méo, quẫy đảo những gì vốn tưởng là huyền thoại, là “vĩnh cửu”. Huyền
thoại về con trâu đen đã từng là cả một bầu trời tuổi thơ của nhân vật trong Chảy
đi sông ơi, nhưng ở nhịp sống đương đại này, con trâu cũng đi theo bước chân của
“tôi” lên thành phố với một “cuộc sống trưởng giả” và “các nhu cầu thiết thực”
bao bọc, huyền thoại ấy cũng sẽ dần phai nhạt đi như một quy luật tất yếu. Tiếng
gọi “Đò ơi… ơi đò! Đò ơi! Ơi đò!” vang lên ráo riết bên tai của nhân vật trẻ
thơ năm nào nay đã trưởng thành giống như một tiếng gọi, tiếng kêu cứu của một
nông thôn, một làng quê với bến đò và cây gạo đang đối mặt với một nỗi lo lắng
khủng khiếp: những biểu tượng vẫn còn hiện diện ở đó nhưng những ý nghĩa đẹp đẽ
đang dần mất đi, tan biến trong đời sống hiện tại. Nông thôn của một thời từng
đóng vai trò điểm tựa, là bệ đỡ, là nơi “ở ẩn” cho con người tìm về khi không
thể chịu đựng được bụi bặm và những xô bồ của đời sống kinh thành, nay đã không
còn đủ vững chắc nữa. Nó đang bị chính những đứa con đang lớn của nó phủ định
“không khí u uất, tù đọng của làng quê làm tôi tái tê cảm giác chua xót”, “tôi
chẳng có gì cả […] tôi là con số không”. (Con gái thủy thần). Trước cái tù đọng,
có thể Nhâm vẫn ở lại gánh lúa, Năng vẫn chăn châu cắt có, Hiên sau khi tự tử bằng
ổ kiến lửa bất thành, vẫn sẽ tiếp tục đồng áng và lấy chồng, nhưng, luôn có
“nhưng” ở tuổi trẻ, nhưng một vài trong chúng – những đứa trẻ từ làng sẽ bỏ đi.
“Sau đêm hát chèo ấy, chị Nhã tôi bỏ nhà đi. Chị Nhã thông minh nhất nhà, chị
đã nhận ra một thế giới khác ở chân trời khác dưới tấm áo xanh đỏ tím vàng của
đám diễn viên sân khấu kia” (Chú Hoạt tôi). Mười tám tuổi, Nhã bỏ đi vì một
đoàn chèo đi lưu diễn, vì thèm tấm áo xanh đỏ như “hai đứa trẻ” của Thạch Lam
thèm một thứ nước xanh đỏ của thành phố. Sự ra đi, sự dịch chuyển, đó là nổi loạn,
đó là thách thức, đó là phản kháng, là bất mãn và là quyết định không đồng ý thỏa
hiệp với nỗi buồn chán cố hữu. Những chuyến đi của những đứa trẻ từ làng xuất
phát từ nhu cầu và thèm khát những chân trời mới, từ niềm tin có thể thực dụng
rằng, phía sau những dãy nhà cao tầng, những đường xá đông đúc người và hàng
quán, những ánh sáng không tắt dù ngày hay đêm nơi thành thị sẽ dung chứa một
thứ huyền diệu kiểu mới khác với cổ tích về một con trâu đen quanh năm ngụp lặn–
“đối với bọn con gái chúng tôi, thành phố chính là tuổi xuân, là danh vọng, là
thiên đường, là một ông chồng, là những hy vọng…” (Những tiếng lòng líu la líu
lo), hoặc ngây thơ như Chương, tin rằng Mẹ Cả rất có thể ở kia, đâu đó trong
thành phố này. Đó là những tưởng tượng về đô thị của những đứa trẻ nông thôn, rằng
nơi đó như là một không gian khác cứu rỗi được cái bần hàn, luẩn quẩn đã chôn
chân hàng trăm, hàng vạn thế hệ ở làng. Nhưng càng chạm tới gần với những tưởng
tượng, những tưởng tượng càng bị co rút lại. Rồi những cô sinh viên cũng sẽ sớm
nhận ra, phía sau lớp áo quần hào nhoáng, bóng bẩy của thành thị chỉ là cái hôi
hám, bẩn thỉu, tạp nham của một khu nhà trọ đầy mùi mồ hôi, mùi da thịt con gái
và mùi xú uế nhưng lại luôn nỗ lực trang điểm cho mình một vẻ ngoài tiệm cận với
khái niệm sành điệu. Rồi thì Chương, sau đủ những trải nghiệm cực nhọc, ê chề của
ba chương truyện đi tìm Mẹ Cả, sau những cố gắng vượt thoát ra khỏi cái tuần
hoàn xuân-hạ-thu-đông của làng quê để vươn ra thành phố, tiến về biển, rốt cục
cũng phải tạm đưa ra kết luận về sự “vĩnh cửu” của nỗi buồn, chỉ có nỗi buồn là
có thật cho dù ở làng hay ở phố. Tất cả những gì được vỡ ra, đều phải đánh đổi
bằng tổn thương và chua xót.
Nhưng…
Đi
qua những tổn thương, vỡ ra một điều không có nghĩa đã là đi đến tận cùng của một
tuổi trẻ. Những sự vỡ đó, dù chỉ là trong một khoảnh khắc giật mình hay chỉ tới
sau những trải nghiệm có khi dài bằng nửa đời người, cũng vẫn chỉ là một phân cảnh
rất nhỏ trong bộ phim chưa hồi kết Tuổi hai mươi yêu dấu. Những đứa trẻ từ làng
vẫn cứ mãi bị những ám ảnh từ quá khứ lam lũ, thô ráp của chúng, vẫn cứ mãi bế
tắc để biểu đạt mình. Vẫn có một tảng hóa thạch nặng nề từ nghìn năm đè lên vai
chúng, và nỗi mặc cảm là thứ hãy còn, nhưng ước mơ lại là thứ được cất lên, bởi
Chương vẫn còn đi mãi để tìm đường tới biển và gọi tên người con gái thủy thần.
Mãi mãi còn đó một bóng hình Mẹ Cả chưa từng bị vỡ ra dù cuộc đời oái oăm này
nhiều phen đã phủ định và đập nát những chàng trai, cô gái từ làng. Hóa ra, cho
đến tận cùng, vẫn là những huyền thoại từ bãi mía, bờ sông che chở cho những đứa
trẻ.
“Tôi sinh ra ở nông thôn. Và mẹ tôi là người nông dân,….” đó có thể không phải mở đầu của tất cả những truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp viết tặng cho tuổi trẻ. Nhưng một khi nó thực sự đã bắt đầu theo cách như vậy, hãy tin rằng, những cái “tôi” thật trẻ đó, rồi một ngày chúng sẽ sải bước đi thật xa.
Vũ Kiều Chinh (Bài đăng trên báo Văn nghệ số 3135 ngày 14.3.2020)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét